|
Thứ hai mùng 9 tháng 9:
Về khuya, ngồi suy tư cho những chi xảy
đến, cắm cúi viết những ǵ cảm nhận. Thật là một ngày đầy Thánh Ân. Tôi có
thể đi đến vô tận. Chúa quá nhân hậu đối với tôi, bởi lúc tôi nản ḷng là
lúc Ngài giơ tay nâng đỡ. Hăy cho tôi bắt đầu từ buổi sáng.
Tôi thức giấc vào 7 giờ sáng sau một đêm
trằn trọc không nguôi. Dùng những miếng hand wipe lấy từ nhà hàng, tôi tự
lau rửa thân xác đă bốc mùi chua lợm giọng. Một vài ngụm nước được xử dụng
cách hoang phí để xúc miệng. Điều may là bụi cây đă che chở cho sự kín đáo
của ḿnh và tôi có thể lột truồng ra lau rửa mà không sợ ai thấy. Giống như
một người tiền sử, tôi từ từ cởi quần áo làm phận sự. Một thoáng cảm động
vụt trôi. Sạch đấy nhưng cũng như không, v́ tôi phải mặc lại quần áo cũ.
Đêm qua, vào rừng thông lúc trời chập
choạng nên mọi thứ trở nên mờ ảo. Giờ đây đâu là đường ra hở trời? Cố nghĩ
lại và định hướng nhưng vô vọng. Đâm hoảng và trở nên lấm len với bụi đất
giữa đồng ngô, tôi quỳ xuống và khóc nức nở như một đứa bé. Cuối cùng tôi
cũng t́m được đường ra, nhưng này thân tôi trở nên dính nhám và bẩn khủng
khiếp. So much cho cuộc tắm táp ban mai . . .
Tôi chậm chạp bước đi về phía một cụ già
đang ngồi trước cổng: "Ông ơi cho cháu miếng nước được không?" Cụ nh́n tôi
ái ngại rồi đổ đầy biđông nước. Sau đó cụ chỉ tôi đường đi đến The Pretty
Boy Reservoir. Bụng cồn cào v́ đói, nhưng tôi không đủ can đảm mở miệng xin
cụ. Có phải v́ tôi thiếu ḷng tin hay v́ quá kiệt sức? Hoặc v́ tôi vẫn c̣n
mang trong ḿnh sự tự ái vặt và ḷng hợm hĩnh kiêu căng? Tôi không rơ nữa!
Một vài ngă tư và dăm khúc quẹo, bảng chỉ
dẫn biến mất. Đôi ba người bộ hành an ủi tôi: "Bạn đi đúng đường rồi, không
lạc đâu." Thanks God! Dù vẫn bước đều nhưng tôi hơi hoảng bởi toàn là những
đường nhỏ ngoằn ngoèo không có trên bản đồ.
Cuối cùng th́ tôi cũng tới được The Pretty
Boy Reservoir. Định bụng là sẽ tắm một cái cho đă nhưng hàng trăm bảng cấm
dọc bờ hồ làm tôi chùn bước. Đành ngồi nghỉ trên cây cầu sắt mát rượi. Và
khi ấy là lúc tôi cảm nhận sự mệt mỏi, cô đơn và đói khát. Từng thớ thịt,
từng khúc xương trong người tôi như ră ra. Chúng chỉ muốn tôi dừng bước. Một
lẽ nào đó, tôi muốn thở phào cho ư tưởng quit, nhưng từ đáy thẳm vẫn có lời
mời gọi dấn thân. Hai tư tưởng đấu tranh dữ dội trong đầu tôi. Phút cuối,
tôi quyết định give up và sẽ gọi về nhà tập báo tin ngay khi thấy trạm điện
thoại công cộng gần nhất.
Lại một ngă tư nữa. Rẽ đâu bây giờ. Tôi
biết rằng ḿnh phải t́m cho ra đường Falls nhưng h́nh bóng của nó hăi c̣n
bặt tăm. Quyết định đi thẳng nhưng chỉ được mươi bước, trực giác báo cho hay
ḿnh đă đi lộn. Thế là tôi ṿng ngược lại và rẽ phải. Bảng chỉ tên đường từ
từ hiện ra. Tôi đang ở trên đường Gunpowder. Tên nghe thật quen. Một tiếng
đồng hồ sau, trạm điện thoại công cộng chẳng thấy mà tên đường cũng không.
Tôi lạc mất rồi. Cảnh vật chung quanh tuyệt đẹp, nhưng mắt tôi tối lại rồi
nhoe ra. Thất vọng, từng giọt nước mắt lăn dài trên má.
Rồi như một phép lạ, một bảng đường nữa
xuất hiện. Oh, my God! It was Falls Road. Tôi khóc thành tiếng v́ mừng rỡ.
Ngay góc đường là một căn nhà sơn trắng. Một đoạn nhạc cổ điển vọng ra. Lắng
tai nghe ngóng, tôi ngộ ra đó là bản giao hưởng của Bethoven từ radio. Và
bạn ạ, bất kỳ ai nghe nhạc cổ điển có lẽ cũng đều là người tử tế. Nghĩ thế,
tôi quyết định bước vào và gọi nhờ điện thoại.
Khi chờ tới cửa, tôi nh́n thấy một phụ nữ
đang đứng tựa vào cổng gỗ. Một con chó bất giác từ đâu nhào ra sủa ran.
Miệng sủa nhưng đuôi vẫy. Well, không phải chó dữ, không ngại. Tôi mở miệng
xin nước. Người đàn bà tốt bụng dẫn tôi vô nhà, đổ đầy b́nh nước, đem ra
những chiếc bánh chuối nướng nóng hổi thơm phức. Ḷng tin của bà nơi khách
lạ khiến tôi ngạc nhiên tột độ. Tôi không tin nổi sự tốt lành của bà nữa.
Tôi đang mơ?
|
12 |
|
|
Thomas Flanagan,
s.j.
Hồi kư
|