|
44. Những người Tây
Ban Nha khuyên ông không nên nói ǵ, v́ các thủy thủ định bỏ ông trên một
đảo hoang. Nhưng Chúa đă thương cho tàu tới Cyprus an toàn. Xuống tàu, hành
khách đi đường bộ đến một bến khách gọi là Salinas cách đó khoảng 10 dặm và
lên tàu hành hương. Trên tàu này I-Nhă không đem theo lương thực ǵ trừ niềm
hy vọng nơi Thiên Chúa như trong chuyến trước.
Suốt thời gian này, Chúa đă hiện ra cho ông nhiều lần, khiến ông cảm thấy
phấn khởi và vững tin. Ông thấy một vật ǵ tṛn lớn giống như vàng. Ông thấy
như vậy từ khi tàu rời Cyprus đến khi tàu cập bến ở Giapha.
Trên đường đi
Giêrusalem, theo phong tục, họ cưỡi lừa con. Tới chỗ cách thành phố chừng
hai chục dặm, một người Tây Ban Nha thuộc ḍng quí tộc tên là Điêgô Manes,
sốt sắng nói với đám người hành hương là hăy chuẩn bị tâm hồn và giữ thinh
lặng bởi v́ sắp đến chỗ có thể trông thấy Thành Thánh.
45. Mọi người cho đó
là ư kiến hay, nên tất cả đều cầm trí. Trước khi tới nơi có thể trông thấy
Thành Thánh, họ thấy các tu sĩ tay cầm Thánh giá đang đứng chờ họ. Mọi người
xuống lừa đi bộ. Lúc trông thấy thành phố, người lữ khách cảm thấy hết sức
phấn khởi và vui vẻ khác thường. Mọi người cũng đều cảm thấy như vậy. Mỗi
lần đi viếng các nơi thánh ông cũng đều cảm thấy thế
(45).
I-Nhă có ư định ở lại Giêrusalem để viếng các nơi Thánh và đồng thời giúp
đỡ các linh hồn
(46). V́ thế
ông đă đem theo sẵn vài
lá thư giới thiệu với các Cha bề trên ḍng. Ông tŕnh các thư cho Cha bề
trên và tỏ ư định ở lại thành phố v́ ḷng đạo đức. Tuy nhiên về việc giúp
các linh hồn, ông không nói ǵ cả. Bởi v́ ông không tŕnh bày điều này với
ai bao giờ, trong khi điều thứ nhất ông đă nói với nhiều người rồi.
Cha bề trên trả lời
rằng ông không thấy có cách nào để I-Nhă ở lại. Hơn nữa, bởi tu viện quá
thiếu thốn không đủ nuôi các tu sĩ hiện có, Cha c̣n quyết định gửi về Âu
Châu một số người trong chuyến đi về với đoàn lữ hành
(47).
I-Nhă thưa lại là ông
không muốn nhờ tu viện điều ǵ trừ việc thỉnh thoảng giải tội cho ông. Bề
trên trả lời nếu thế th́ được, nhưng yêu cầu ông đợi Cha bề trên giám tỉnh
từ trụ sở của ḍng ở Giêrusalem đến thăm.
46. V́ lời hứa đó,
ông lữ khách cảm thấy vững tâm và bắt đầu viết thư cho một số người đạo đức
tại Barcêlôna. Hôm trước ngày những người hành hương khởi hành trở về, ông
đă viết xong một bức thư và đang viết thêm một bức nữa th́ có người đến mời
ông vào gặp Cha giám tỉnh mới tới và Cha bề trên.
Cha giám tỉnh dùng
lời lẽ nhă nhặn nói rằng đă nghe ư định của ông xin ở lại Đất Thánh. Cha đă
cân nhắc điều đó kỹ lưỡng và theo kinh nghiệm của những người đến trước, Cha
xét thấy không tiện.
(48)
Cha đă cho nhiều người ở
lại, nhưng người này bị bắt, kẻ kia bị giết. Ngoài ra ḍng c̣n phải chuộc
lại những người bị bắt. Do đó, Cha yêu cầu I-Nhă chuẩn bị lên đường ngày hôm
sau với nhóm hành hương. Ông trả lời ông đă nhất quyết rồi và sẽ không thay
đổi ư kiến v́ bất cứ lư do ǵ. Ông dùng lời hoà nhă để Cha giám tỉnh hiểu
rằng, dù Cha không bằng ḷng ông cũng sẽ không bỏ ư định và sẽ không sợ bất
cứ lời đe dọa nào trừ khi có lệnh buộc lương tâm thôi
(49).
Nghe vậy, Cha giám
tỉnh cho ông hay Cha có văn thư Ṭa Thánh ủy quyền cho Cha ra lệnh trục
xuất, hoặc cho phép ở lại những người Cha muốn và rút phép thông công những
người không vâng lời. Trong trường hợp người lữ khách, Cha cho rằng ông
không được ở lại.
47. V́ Cha tỏ ư muốn
đưa văn thư của Ṭa Thánh ủy quyền rút phép thông công cho ông coi, th́ ông
nói ông tin lời hai Cha đáng kính, khỏi cần coi văn thư. V́ Ṭa Thánh phán
xét như thế nên ông vâng theo
(50).
Xong vụ này rồi, đang
khi về nhà trọ I-Nhă cảm thấy ước ao viếng Núi Cây Dầu một lần chót trước
khi ra đi, bởi v́ Chúa không muốn ông ở lại Đất Thánh. Trên núi có một phiến
đá Chúa đă đứng trước khi lên trời, ngày nay c̣n được thấy dấu chân của
Chúa. Ông muốn trở lại coi dấu chân của Chúa. Không nói ǵ với ai và không
nhờ người hướng dẫn, ông lén lút bỏ đám người hành hương và tới núi cây dầu
một ḿnh.
Lính
gác không muốn cho ông vào, ông cho họ một con dao nhỏ mang theo. Sau khi
đọc kinh rất sốt sáng ông lại nảy ư định muốn đi tới Bethphage và ông đi
liền. Tại đó ông mới nhớ ra rằng khi ở trên núi cây dầu, ông đă quên không
nh́n kỹ dấu chân Chúa hướng về phía nào, nên ông trở lại coi. Lần này, h́nh
như ông cho lính gác cái kéo để họ cho vào.
48. Ở tu viện người ta khám phá ông đi một ḿnh, các tu sĩ lo lắng sai
người đi t́m
(51). Đang khi từ trên núi cây dầu xuống, ông gặp một người thắt đai
giúp việc tại tu viện. Ông này cầm một cây gậy to tướng với vẻ mặt hung dữ
như muốn đánh. Tới gần I-Nhă, ông ta tóm lấy, nắm chặt lấy tay kéo theo.
I-Nhă không chống cự nhưng người này vẫn cứ nắm chặt và kéo. Trong khi đi
như thế về tới tu viện, I-Nhă được thấy Chúa liên miên như từ trên cao và
ḷng cảm thấy tràn đầy hạnh phúc
(52).
. . .
|
10 |
|
|
(45) Vào ngày 5 tháng 9, I-Nhă
cùng với nhóm hành hương đến viếng núi Sion, pḥng Tiệc Ly, Nhà Thờ Đức Mẹ
Sinh Th́, và Mộ Thánh. Hôm sau, mùng 6, họ đi theo con đường Thánh Giá khởi
đầu từ tháp Antonia đến đồi Canvê. Ngày 7, họ viếng làng Bêtania và núi Cây
Dầu. Hai ngày 8 và 9, thăm thành Bêlem. Ngày 10 và 11 thăm làng Jehosaphat
và vườn Cây Dầu. Nghỉ ngơi vài hôm, I-Nhă và đoàn lữ hành đi Jerico và ghé
sông Jordan vào ngày 14. Từ 16 đến 22 tháng 9, họ dừng chân tại Jerusalem
một lần nữa để rồi lại lên đường đi Jaffa ngày 3 tháng 10
(46) Đến lúc này, ngoài việc thánh hóa bản
thân qua đời sống cầu nguyện và hăm ḿnh phạt xác, I-Nhă c̣n đưa việc giúp
đỡ tha nhân vào kế hoạch sống mỗi ngày.
(47)
Vào thời bấy giờ, khách lữ hành thường trọ tại các tu
viện và thường không phải trả lệ phí nào. Hơn nữa, họ lại c̣n được các Cha
nuôi ăn uống mỗi ngày. V́ thế, đoàn lữ hành theo một nghĩa nào đó đă trở
thành gánh nặng cho các Cha ḍng Phanxicô ở Giêrusalem.
(48) Không tiện v́ hai lẽ: một
là Cha Bề Trên Giám Tỉnh chiếu theo kinh nghiệm của quá khứ sợ rằng chỉ v́
tính bốc đồng nhất thời, I-Nhă muốn ở lại Thành Thánh và sau này sẽ đổi ư mà
bỏ cuộc. Hai là sự căng thẳng giữa thế giới Hồi Giáo và Thiên Chúa Giáo thời
bấy giờ. Cho phép quá nhiều người lữ hành ở lại có thể làm các người anh em
Hồi Giáo nổi giận và từ đó, việc hành hương sẽ trở nên khó khăn hơn. Ngoài
ra, đă có khá nhiều người lữ hành bị quân Thổ bắt, giết hoặc dùng họ như một
phương tiện tống tiền các Cha.
(49) Đến lúc này, dựa trên kết
quả của quá tŕnh nhận định ư Chúa, I-Nhă khẳng định rằng việc ở lại
Jerusalem là một việc làm đẹp ḷng Chúa. Bởi đó, ông đă trả lời Cha bề trên
giám tỉnh Ḍng Phanxicô như trên. Việc trả lời thẳng thừng như thế không nên
hiểu là một hành động khiếm nhă, coi thường hay thách thức các Cha ḍng
Phanxicô.
(50) Ở đây, chúng ta hăy
cùng nhau t́m hiểu cách thức I-Nhă nhận định ư Chúa khi không được phép ở
lại Giêrusalem. Một mặt, qua cầu nguyện và kinh nghiệm bản thân, I-Nhă hiểu
rất rơ rằng Chúa muốn ông đi đến và ở lại Jerusalem. Mặt khác, Cha Bề Trên
Giám tỉnh ḍng Phanxicô lại không cho phép và sẵn sàng rút phép thông công.
Vậy đâu là ư thật của Chúa? Như chúng ta thấy, I-Nhă sau cùng cho rằng quyết
định của Cha bề trên là Thiên Ư của Thiên Chúa. Thế th́ chẳng lẽ Chúa lại
không nhất quán trong quyết định của Người? Hay tại I-Nhă nhận định sai? Câu
trả lời là I-Nhă nhận định đúng và ư của Cha Bề Trên cũng phản ánh một cách
trung thành điều Chúa muốn trên bản thể đời ông. Thật vậy, từ những năm đầu
sau khi trở về với đời sống tận hiến, I-Nhă đă biểu lộ ḷng ao ước sống
trung thành, tuân phục và yêu mến Giáo Hội, đặc biệt là các vị đại diện
Thiên Chúa ở trần gian như Đức Giáo Hoàng và các đấng Giáo Quyền địa phương.
Thế th́ vâng phục các vị Đại Diện Đức KiTô ở trần gian phải là ưu tiên một
và là điều Chúa mong ước nơi mọi người. Trường hợp của I-Nhă, trong giai
đoạn nhất thời đó, dù chưa rơ điều ǵ tiềm ẩn đằng sau quyết định của Cha
Giám Tỉnh, I-Nhă đă quả quyết và nhận định rằng ḷng yêu mến và tuân phục
Giáo Hội chính là điều làm danh Chúa thêm cả sáng. Thế nên Ngài vui vẻ tuân
theo dù ḷng rất buồn. Măi đến sau này khi Ḍng Tên h́nh thành, ta chợt ngộ
ra lư do tại sao lại hiện hữu một điều xem ra trống đánh xuôi kèn thổi
ngược: bản thân muốn ở, giáo hội bảo không cho. Quả thế, đúng là Chúa muốn
I-Nhă hiện hữu và làm việc tại Giêrusalem. Nhưng Jerusalem ở đây không nhất
thiết phải là một Jerusalem xương thịt nằm ở một góc nhỏ của nước Do Thái.
Trái lại, nó có thể là một Jerusalem mở rộng, chẳng bị giới hạn bởi không
gian và thời gian. Điều này lại c̣n được minh xác cách rơ ràng hơn khi Đức
Giáo Hoàng Phaolô Đệ Tam đă nói với I-Nhă và 10 thành viên đầu tiên của ḍng
khi họ tŕnh bày ư tưởng muốn đi Jerusalem để giúp các linh hồn: “Các con có
thể giúp các linh hồn ở bất cứ nơi đâu và Rôma cũng có thể là Jerusalem của
các con vậy."
Ghi chú: mười thành viên đầu tiên và có thể
coi là 10 vị đồng sáng lập ḍng Tên là: Inigo López de Loyola (hay Ignatius
of Loyola), Francis Xavier, Diego Laínez, Pierre Favre, Alfonso Salméron,
Simâo Rodrigues, Nicolás Bobadilla, Claude Jay, Paschase Broet, và Jean
Codure.
(51) V́ họ sợ I-Nhă đi lạc hoặc bị quân Thổ bắt mà
giết đi.
(52) Có một sự hiểu lầm giữa I-Nhă và nhà ḍng
Phanxicô. Các Cha đă ngỡ là I-Nhă cố t́nh trốn đi để t́m cách ở lại. Bởi
thế, theo phong tục thời trung cổ và quyền năng được ủy phép cho, các Cha có
toàn quyền t́m kiếm và bắt giam những ai bất phục tùng. Điều này thể hiện rơ
qua hành vi kém gượng nhẹ của người giúp việc cho nhà ḍng. Cũng chính v́ lẽ
ấy, I-Nhă cảm thấy ḿnh bị hiểu lầm và xỉ nhục v́ Chúa, nên ông trở nên vui
vẻ khác thường. Người giúp việc t́m bắt I-Nhă hôm ấy là một người Syria đă
trở lại đạo và làm việc cho các cha Phanxicô tại một tu viện gần núi Cây Dầu
cận thành Jerusalem. Ông ta đeo một cái đai ngang hông như là một căn cước
cho vai tṛ của ḿnh.
|