|
Hai loại tư tưởng trên gây ra những phản ứng khác nhau.
Lúc nghĩ đến chuyện đời, I-Nhă cảm thấy rất thích thú, nhưng khi hết nghĩ
đến th́ ông cảm thấy khô khan và trống rỗng. Trái lại, lúc nghĩ đến việc đi
chân không đến Đất Thánh, không ăn uống ǵ trừ rau cỏ và sống khắc khổ như
các Thánh đă sống th́ ông cảm thấy rất phấn khởi, không những trong lúc nghĩ
đến, mà cả khi hết c̣n nghĩ đến nữa, ông vẫn cảm thấy vui và hài ḷng.
8. Lúc bấy giờ ông chưa để ư phân tích kỹ các phản ứng
khác nhau đó. Cho tới khi nhận ra, ông lấy làm lạ
và bắt đầu suy nghĩ mà tự hỏi
tại sao sau khi nghĩ đến việc này th́ thấy buồn, nhưng sau khi nghĩ đến việc
kia lại thấy vui. Từ đó, ông khám phá ra hai phản ứng khác nhau và ảnh
hưởng trên tâm hồn: một thứ do ma quỉ bày ra, c̣n một thứ khác do Thiên Chúa
soi sáng.(8)
9. Nhờ đọc sách và cảm nhận được cuộc đời ḿnh dưới một luồng sáng mới,
I-Nhă ư thức cần phải ăn năn hối cải.(9) Từ đó ông cảm thấy có
ư muốn noi guơng các Thánh, muốn làm những ǵ y hệt như các Thánh đă làm,
nhờ ơn Chúa giúp. Có một việc ông muốn làm trên hết: đó là khi nào khoẻ mạnh
lại, ông sẽ đi tận Giêrusalem đồng thời tự đánh tội và nhịn ăn với tất cả
ḷng sốt mến của một tâm hồn hăng say.
10. Nhờ ư muốn Thánh thiện này, các chuyện phù phiếm kia
dần dần bị quên lăng, và I-Nhă được củng cố tinh thần bởi một thị kiến
thiêng liêng như sau:
Một đêm kia khi thức giấc, ông nh́n thấy h́nh dạng Đức Mẹ
với Chúa Hài Đồng trong một lúc lâu. Nhờ xem thấy h́nh ảnh đó, ông cảm thấy
tâm hồn phấn khởi lạ thường, đồng thời ghê tởm tất cả quăng đời quá khứ, đặc
biệt là những đam mê xác thịt. Ông có cảm tưởng tất cả những h́nh ảnh cũ bị
tẩy xoá trong tâm hồn. Từ giây phút đó trở đi (cho đến tháng 8 năm 1553 khi
cuốn sách nầy được viết), không một lần nào ông nghĩ đến các đam mê xác thịt
mà lấy làm thích thú nữa. Với kết quả như thế, th́ chắc là thị kiến do Chúa
mà đến, mặc dù I-Nhă chưa dám định quả quyết, nhưng chỉ kể chuyện đă xảy ra
thôi. Tuy nhiên, ông anh và tất cả mọi người trong nhà nh́n thấy cách thức
cư xử bên ngoài, đều nhận thấy được rằng I-Nhă đang thay đổi bên trong.(10)
11. Tuy nhiên, ông cứ điềm nhiên tiếp tục đọc sách và
nghĩ đến những việc ông sẽ làm. Mỗi lần nói chuyện với người trong nhà, ông
chỉ nói đến Chúa để giúp đỡ họ. V́ đọc sách thiêng liêng thấy có ích lợi,
I-Nhă nẩy ư muốn chép một số đoạn chính trong đời sống của Chúa và các
Thánh. Ông lấy một tập vở và bắt đầu biên chép các đoạn sách. Lời Chúa ông
viết bằng mực đỏ, lời Đức Mẹ ông viết bằng mực xanh rất cẩn thận
trên giấy láng có hàng kẻ. Nét chữ của ông rất đẹp nên cả cuốn vở trở nên vô
cùng hấp dẫn. Suốt ngày I-Nhă chỉ
lo chép sách và cầu nguyện. Ông thấy phấn khởi, nhất là khi nh́n lên bầu
trời và các v́ sao. Nh́n nhiều lần và nh́n rất lâu, nhờ đó mà ông cảm thấy
đủ nghị lực để phục vụ Chúa. Ông hay nghĩ đến dự tính đi Giêrusalem, và mong
chóng được b́nh phục để lên đường.
12. Ông dự tính thêm sau khi đi Giêrusalem về, ông sẽ sống khắc khổ tại
một đan viện khổ tu ở Sevilla. Ông sẽ giấu tên để khỏi được kính nể và ông
sẽ chỉ ăn rău cỏ mà thôi.
Nhưng sau đó khi nghĩ
ḿnh có thể sống khắc khổ khi đi khắp thiên hạ, ông cảm thấy không c̣n muốn
dừng chân tại đan viện, v́ e rằng sẽ không được phép tự hành hạ ḿnh đủ. Dù
vậy lúc sắp sửa lên đường đi tới Burgos, ông đă nhờ một người ở hỏi dùm luật
lệ ở đan viện, và ông thấy hài ḷng. Tuy nhiên v́ những lư do nói trên, và
v́ lúc bấy giờ ông chỉ nghĩ đến việc sửa soạn ra đi, nên việc vào đan viện
ông không mấy để ư đến mà quyết định để khi về mới tính tiếp.
Thấy tạm khoẻ lại và có thể lên đường, I-Nhă
nói với ông anh: “Thưa anh, Công Tước Najera, như anh biết, đă hay tin em
khỏi rồi. 'Có lẽ em nên đi thăm ông hiện đang ở Navarrete.'” Ông anh đă đưa
I-Nhă đi vào một pḥng, rồi tiếp đến sang pḥng thứ hai, và với tất cả niềm
tŕu mến, cố gắng thuyết phục em đừng lao ḿnh vào một cuộc phiêu lưu nguy
hiểm. Ông nhắc nhở I-Nhă rằng: "Bao nhiêu người đang tin tưởng em, bao nhiêu
công việc cao trọng em có thể làm," và c̣n thêm nhiều lời lẽ tương tự với
mục đích thuyết phục I-Nhă bỏ ư định tốt đẹp. I-Nhă trả lời khéo, dù không
nói dối, bởi v́ về điểm này ông thường rất cẩn thận, và cuối ông cũng tránh
né và từ giă được ông anh.(11)
|
3 |
|
|
(8) Các tu sĩ Ḍng Tên đồ đệ của Thánh I-Nhă luôn mong ước được hiểu rơ bằng
cách nào mà I-Nhă đă viết ra những bài tập Linh Thao để đời. Ở đây, chúng ta
bắt đầu được nghe chính Thánh nhân kể lại những kinh nghiệm người rút tỉa
được từ những năm tháng đầu theo Chúa. Cũng chính từ giờ phút ấy, mà các
phần nhận định và phân biệt thần loại được thai nghén và thành h́nh. Theo
ngôn từ của I-Nhă, nhận định là một hành vi nh́n thẳng vào đáy thẳm của nội
tâm hầu t́m cho ra và phân biệt cho được. Ở đây, kinh nghiệm của những lần
nghĩ về vinh quang trần thế chỉ cho Ngài một chút cảm giác thoáng qua. Chúng
chẳng tồn tại lâu và mong manh chóng vỡ như bọt nước. Nhưng những tư tưởng
về các điều lành thánh lại đem đến cho Ngài niềm an ủi và hoan lạc vô song,
chẳng những trong hiện tại mà c̣n kéo dài đến tương lai. Thiên Chúa là Đấng
quyền năng. Ân huệ của Người bền vững đến thiên thu. Chẳng có ǵ thuộc về
Thiên Chúa mà lại chóng tàn cả. Từ suy nghĩ đó, I-Nhă đă đi đến một kết luận
vô cùng hữu ích cho những ai muốn học hỏi cách phân biệt thần loại: những
khao khát, những tư tưởng chỉ đem lại sự b́nh an mang tính cấp thời và mau
chóng vỡ tan như bong bóng là những tư tưởng đến từ thần dữ , v́ thần dữ
chẳng có ǵ để cho đi, mà chỉ chấp nhận sự nhượng bộ tạm thời hầu vĩnh viễn
chiếm đoạt hồn ta mà thôi. Trái lại, tư tưởng kia đến từ Thiên Chúa. Một
trong những suy tư đến từ Thiên Chúa trong kinh nghiệm riêng của I-Nhă là tư
tưởng được hành hương về Đất Thánh – một hành vi đạo đức đáng trân trọng
thời bấy giờ.
(9) Thế mới hay sức mạnh của
các truyện và các sách đạo đức. V́ lư do này, I-Nhă luôn luôn khuyến khích
kẻ theo người hăy trau dồi ḷng yêu mến Chúa bằng việc đọc các sách thiêng
liêng. Dù chẳng phải là mục đích, nhưng chúng là những phương tiện giúp ta
yêu mến và gần gũi Chúa nhiều hơn.
(10) Thị kiến này là một trong
những ví dụ cụ thể mà I-Nhă muốn đưa ra để minh chứng điều đến từ Thiên Chúa
luôn luôn kèm theo tính kiên định và trường tồn. Tuy nhiên, ta cần phân biệt
giữa ân sủng Chúa ban và ơn huệ ta muốn nài xin. I-Nhă không xin Chúa ban
cho ông được ơn chẳng c̣n đam mê những thú vui xác thịt. Điều ông nhận được
đến cách nhưng không từ Thiên Chúa. Rất có thể có lúc bạn và tôi cũng ước
mong được ơn như I-Nhă. Nhưng một lần nữa, mong rằng chúng ta không hiểu lầm
ông khi cho rằng I-Nhă khuyến khích mọi người hăy xin cho được một ơn là
chẳng c̣n chút đam mê xác thịt nào. Đọc lại những trang tự thuật của Ngài,
I-Nhă không nói các đam mê xác thịt không bao giờ đến. Ngài chỉ nói, Ngài
chẳng lấy làm thích thú nữa mà thôi. Thế nên cám dỗ có thể vẫn c̣n đó, nhưng
điều quan trọng là ta làm ǵ đối với chúng. Ngoài ra, hy vọng chúng ta cùng
đồng ư ở một điểm: xin là việc của ta, biến đổi và trao tặng là việc của
Chúa.
(11) Dù chẳng nói ra nhưng ông anh của I-Nhă phần nào
cũng đoán ra ư định của em ḿnh. Thế nên ông đă đưa I-Nhă rảo qua các pḥng
trong lâu đài Loyola, nơi chứa đựng những chứng tích và vinh quang của ḍng
họ. Hồi ấy, việc hành hương đi Jerusalem là một việc vô cùng gian khổ. Kẻ lữ
hành phải từ bỏ tất cả và nhiều khi phải sống như những người ăn mày. Có hai
loại người đi hành hương. Một là những người phạm tội thật nặng như chối
đạo, giết người hay hăm hiếp. Họ bị các cha giải tội bắt đi hành hương trong
một thời gian như là việc đền tội. Hai là những kẻ thật thánh thiện muốn làm
điều này v́ yêu mến Chúa và khao khát nên thánh. I-Nhă thuộc loại người thứ
II. Nhưng bất kể thuộc loại nào, việc ra đi bỏ lại đằng sau tất cả danh vọng
và tiếng tăm là điều mà gia đ́nh ông sẽ khó ḷng chấp nhận. Đấy là lư do tại
sao anh của I-Nhă chẳng muốn ông ra đi. |