|
29.
Thứ Hai: Một hôm hiện ra
trong trí I-Nhã về cách thức Chúa đã tạo tác nên muôn vật, khiến ông cảm
thấy sung sướng tâm hồn. Ông có cảm tưởng nhìn ra một vật trắng, từ đó có
những tia sáng tỏa ra, như Thiên Chúa dùng vật đó để tạo thành ánh sáng. Tuy
nhiên ông cũng không biết cách giải thích những điều đó, và không nhớ rõ
được những hiểu biết thiêng liêng mà Thiên Chúa đã in vào tâm hồn ông.
Thứ
Ba: Sau khi ở lại Manrêsa chừng độ một năm, được Thiên Chúa nâng đỡ và hướng
dẫn một số linh hồn có kết quả khả quan
(26), I-Nhã
lại bỏ bớt những hình thức khắc khổ quá mức, rồi cắt móng tay, móng chân và
cắt tóc trở lại.
Một hôm đang khi xem
lễ ở một nhà thờ trong tu viện (vẫn ở Manrêsa) vào lúc linh mục nâng Mình
Thánh Chúa lên, ông thấy bằng mắt tâm hồn vài tia sáng từ trên cao xuống.
Trong nhiều năm, ông vẫn không giải thích được hiện tượng đó, tuy nhiên
những gì ông thấy rõ bằng trí tuệ, đó là cách thức Chúa Kitô, Chúa chúng ta
hiện diện trong bí tích chí thánh.
Thứ Tư: Nhiều lần
đang khi cầu nguyện, mỗi lần trong một lúc khá lâu, I-Nhã đã thấy bằng mắt
tâm hồn, nhân tính của Chúa Kitô. Ðó là hình ảnh một thân thể trắng tinh,
vóc dáng trung bình không phân biệt rõ chân tay. Tại Manrêsa, vì ông đã thấy
hình ảnh đó từ hai mươi đến bốn mươi lần nên không dám cho là ảo giác nữa.
Ông đã thấy hình đó một lần nữa tại Giêrusalem và một lần khác nữa trên
đường đi tới Pađôva. Ông còn thấy Ðức Mẹ dưới hình thức tương tự không phân
biệt rõ chân tay.
Tất cả những điều ông
thấy đã củng cố niềm tin của ông đến độ ông nghĩ bụng: dù Thánh Kinh không
dạy những chân lý về đức tin đi nữa, thì chỉ dựa trên hình ảnh ông đã thấy,
ông vẫn sẵn sàng từ bỏ mạng sống để bênh vực các chân lý đó.
30. Thứ Năm: Một hôm ông đi đến một nhà thờ
(27), cách Manrêsa
chừng một dặm để cầu nguyện. Trên con đường song song với một con sông, ông vừa đi vừa đọc kinh, rồi lại ngồi xuống,
mắt hướng về dòng nước chảy dưới thung lũng.
Ðang khi ngồi tại đó,
mắt tâm hồn ông dần dần mở ra. Mặc dù không thấy hình ảnh nào, ông đã am
tường nhiều điều, vừa thuộc đức tin vừa văn hoá, dưới một luồng sáng rực rỡ
khiến mọi điều trở nên mới mẻ
(28). Không thể trình bày chi tiết những điều ông đã lĩnh hội
được lúc đó, mặc dù rất nhiều, chỉ biết rằng ông đã hiểu những điều đó hết
sức rõ ràng. Tính
chung, tất cả những gì Chúa ban và những điều ông học hỏi suốt cả cuộc đời,
tức là 62 năm qua, cũng không bằng những điều ông đã lĩnh hội qua các thị
kiến tại Manrêsa.
(29)
31. Sau khi hiện
tượng trên kéo dài được một lúc lâu, I-Nhã quì gối trước một thập giá gần đó
để cảm tạ Thiên Chúa. Lúc ấy ông lại nhìn thấy hình bóng mà ông đã thấy
nhiều lần trước mà chưa hiểu rõ, tức là hình bóng có vẻ rất đẹp và có nhiều
mắt. Nhưng lần này đang lúc quì gối trước thập giá, ông thấy rõ ràng hình
bóng đó không có nhiều màu sắc đẹp đẽ như những lần trước, và hiểu biết hết
sức rõ rệt, cũng như xác tín cương quyết đó là ma quỉ. Sau đó nhiều lần hình
trên lại hiện ra trong một lúc lâu, nhưng I-Nhã khinh chê và xua đuổi nó
bằng cây gậy mà ông thường cầm nơi
tay
(30).
32. Một hôm tại
Manrêsa I-Nhã bị sốt nặng tưởng sắp chết. Ông có cảm tưởng rõ rệt linh hồn
sắp lìa khỏi xác. Đột nhiên một tư tưởng hiện ra trong đầu óc rằng ông là
người công chính
(31). Ông
cảm thấy rất đau buồn và
chỉ lo chống lại tư tưởng đó. Nhưng mặc dù cố gắng hết sức, ông không tài
nào đánh bại được nó. Khi cơn sốt đã bớt phần nào và không còn nguy hiểm
nữa, ông bắt đầu kêu lớn tiếng cho một số các bà thường đến thăm ông, và ông
yêu cầu họ vì tình thương của Thiên Chúa, lần sau khi thấy ông sắp chết, xin
các bà kêu lớn tiếng bên tai ông: “Ðồ đầy tội lỗi!” để giúp ông nhớ lại các
tội đã phạm đến Chúa.
. . .
|
7 |
|
|
(26)
Khao khát của
I-Nhã lúc này đã chuyển sang hướng muốn phục vụ tha nhân và đồng thời thánh
hiến bản thân.
(27) Hình như đó là Nhà Thờ
Thánh Phaolô.
(28) Đây là một
trong những cảm nghiệm thiêng liêng quan trọng đã biến đổi cả tầm nhìn của
I-Nhã. Có lẽ chúng ta sẽ thấy cả năm cảm nghiệm thiêng liêng đều khó hiểu và
chẳng có ý nghĩa. Thật ra, không phải ai cũng được Chúa ban cho ân sủng được
trải qua một cảm nghiệm thiêng liêng. Chính vì lẽ đó, những kinh nghiệm mà
I-Nhã trải qua khó có thể diễn tả trên giấy trắng mực đen như những câu
chuyện bình thường khác. Một cảm nghiệm thiêng liêng (mystical experience)
theo truyền thống thường bắt đầu bằng một trạng thái lâng lâng khó tả, cảm
giác mất thời gian và không gian tính. Tất cả trong chốc lát được phủ tràn
bằng những cảm nghiệm tuyệt vời - mọi suy tư, nghi hoặc, lắng lo, phiền muộn
và ước mơ chợt tan biến chỉ còn lại dấu ấn của hoàn hảo, tự do, thánh thiện
và nên một giữa hồn và xác. Nhưng điều quan trọng hơn cho sự mạc khải ấy là
thứ cảm giác tan biến, quên mình đi - bản ngã bị triệt tiêu, cái tôi đi vào
quên lãng. Cần phân biệt cảm nghiệm này với kinh nghiệm tương tự mà người xử
dụng thuốc phiện có thể trải qua. Những người dùng thuốc phiện chắc hẳn sẽ
chẳng có khao khát cho cái "tôi" được quên đi để chữ “người” lớn dậy.
Theo truyền thống, Giáo Hội Công Giáo luôn luôn cảm
nhận sức mạnh của các ơn của Chúa Thánh Thần. Ở đây, I-Nhã đã được Chúa
Thánh Thần ban cho ơn hiểu biết, và bởi đó, ông ngộ ra những điều mà trước
đây ông chưa bao giờ hiểu hay nghĩ tới. Ơn hiểu biết đặc biệt này tuy không
phải ai cũng được ban, nhưng không phải là điều họa hiếm. Trong các câu
truyện về cuộc đời của các thánh, hẳn chúng ta còn nhớ thánh nữ Catharina
thành Siena, thánh Teresa Avila hay thánh Fanstina Kowalska. Tất cả các vị
thánh này đã có một sự hiểu biết sâu rộng về nền tảng của sự thật và đức tin
dầu họ là những con người chưa bao giờ được học hành đến nơi đến chốn.
(29) I-Nhã thường nhấn mạnh
về chất lượng hơn là số lượng của những lần cảm nghiệm.
(30) Như đã dẫn ở chú thích
17 và 23, bây giờ, sau 4 tháng suy tư, I-Nhã mới dám quả quyết là hình ảnh
con mắt rắn kia đến từ ma quỷ. Sau này, người xử dụng kinh nghiệm nói trên
cho các nguyên tắc nhận định của tuần thứ II trong Linh Thao (LT # 328-336):
"Khi kẻ thù của bản tính nhân loại bị cảm biết và bị nhận ra do cái
đuôi con rắn của nó và do mục đích xấu mà nó dẫn tới . . . (ng. tắc
6)." Đối với I-Nhã, nhận định ý Chúa là một quá trình lâu dài đòi hỏi nhiều
kiên nhẫn và lòng cậy trông.
(31) Từ công chính ở đây
nên hiểu là I-Nhã đang được sống trong ân nghĩa của Thiên Chúa – the state
of Grace. Thông thường, không ai có thể thấy hay chỉ ra được tình trạng thật
của linh hồn mình mà phải dựa vào tình yêu và lòng nhân hậu của Chúa hay vào
sự hướng dẫn khôn ngoan của Giáo Hội qua các bí tích hoặc qua các giáo huấn.
Ở đây, I-Nhã chợt nhận được một sự linh hứng đặc biệt mách bảo ông rằng linh
hồn ông rất gần gũi với Thiên Chúa. Thế nhưng điều
này lại làm ông
hãi kinh. Chẳng phải vì ông không ao ước sống trong tình yêu của Thiên Chúa
nhưng vì I-Nhã lo rằng điều ấy sẽ dẫn ông đến chỗ kiêu căng và ham danh.
|