|
Khi đi đại hội Brésil về, tôi cứ tần mần xem
tới xem lui xấp h́nh măi, từng khuôn mật trên tấm ảnh, từng sinh hoạt cũng
như từng khung cảnh một gợi lại trong tôi biết bao nhiêu kỷ niệm sống
động, khó quên. Làm sao bạn thấu hiểu được hết những tâm t́nh mà tôi đă
sống và cảm nhận được trong chuyến đi này? Tôi không có tham vọng kể lại
từng chi tiết của kỳ đại hội, tôi chỉ xin chia sẻ với các anh chị những ǵ
mà tôi cảm nhận và giữ lại trong tâm trí tôi. Đây là đại hội thế giới thứ
mười ba của Christian Life Community (CLC), đại hội cuối của thế kỷ thứ
hai mươi với chủ đề: ‘To deepen our apostolate identity-Clarify our common
mission: CLC is a letter from Christ, written by the Spirit, sent to
today’s world.’ Phái đoàn Canada Francais chúng tôi gồm có: cha Tuyên Úy
Patrice Proulx, bà Monique St-Pierre (vice-president) và tôi (thủ quỹ).
Chúng tôi đến Rio de Janiero thăm viếng hai ngày trước khi dự đại hội. Tại
đó, chúng tôi được cha bề trên giám tỉnh (père Francisco Vern) và một gia
đ́nh chị Milia (CLC member Rio) tiếp rước một cách nồng hậu, ân cần. Tuy
chỉ có hai ngày, nhưng chúng tôi cũng được xem tượng Chúa Cứu Thế đứng
sừng sững trên ngọn núi Corcovado, giang tay ôm trọn dân Brazil, đi dọc bờ
biển Copacabana đẹp nổi tiếng trên thế giới và thăm viếng thảo cầm viên
đầy hoa xứ nóng. Tuy vậy, bên cạnh những cảnh đẹp đó, chúng tôi cũng nhận
thấy các biệt thự đầy hàng rào và lính gác cửa, trà trộn vớI những căn nhà
èo ẹp dơ dáy, và các trẻ em lem luốc đứng chơi đầy đường. Chúa ơi, Chúa có
đau ḷng không khi thấy sự khác biệt giai cấp quá lớn? Điều mà tôi thích
nhất ở Rio là được đi dự một thánh lễ ở một cư xá sinh viên. Hôm đó có cha
Francisco và một cha Ḍng Tên khác đồng tế trong một không khí thật ấm
cúng, thân mật. Các em sinh viên hát hăng say và nhiệt thành đến độ mấy
lần tôi không cầm được nước mắt mặc dù không hiểu một tí ǵ về tiếng
Portugese. Trong ḷng tôi lúc ấy cứ lẩm bẩm xin cho T́nh Yêu Chúa luôn ghi
khắc trong tâm hồn các em. Chúa ơi, qua sự tiếp đón nồng hậu của cha
Francisco và gia đ́nh của chị Milia, qua sự rộng lượng của một bà
Brasilien đă cho tụi con ba đồng Ral để đi xe bus (v́ lúc đó chúng tôi
chưa đổi được nội tệ) và qua sự nhiệt thành của các sinh viên, con thấy
phấn khởi và hy vọng v́ Chúa vẫn luôn hiện diện trong ḷng người. Sau tám
giờ đồng hồ đi xe đ̣ và taxi từ Rio tới Itaici, chúng tôi đă đến ‘Villa
Kostka’, nhà tĩnh tâm của các cha Ḍng Tên, cách thành phố Sao Paulo chín
chục phút. Căn nhà này rất đẹp, xưa được xây trên vườn café (bây giờ trong
vườn, tôi thấy trồng đủ loại cây ăn trái, chẳng hạn như cây đu đủ, cây
chuối, cây cam, cây ổi, cây me, cây bơ, vv...) và có thể chứa tớI 350
người. Căn nhà có một nhà nguyện lớn và sáu nhà nguyện nhỏ, một thính
đường cho 450 ngườI và một pḥng ăn lớn. Ngay từ ngày đầu, lúc đi thăm các
nhà nguyện nhỏ, tự nhiên tôi bị đánh động bởi nhà nguyện mang tên ‘Chúa Ba
Ngôi.’ Trong nhà nguyện này, trên một bức tường lớn có vẽ câu chuyện của
ông Abraham và bà Sarah đang tiếp ba người khách (chính là Chúa Ba Ngôi).
Kỳ lạ thay, tôi bị thu hút bởi ánh mắt của Chúa Giêsu trong bức tường: cặp
mắt sáng quắc đó như xuyên thấu ḷng tôi và mặc dù đang đứng ở vị trí nào
trong pḥng, cặp mắt ấy vẫn dơi theo tôi. Tôi bị xúc động mạnh đến độ phải
bật khóc; tôi có cảm tưởng Chúa muốn nói với tôi một điều ǵ mà tôi không
hiểu. Mọi ngườI từ khắp phương trời (khoảng 50 quốc gia) dần dần kéo nhau
đến tràn ngập cả căn nhà. Số người đi tham dự đại hội gần đến hai trăm
người, trong đó có khoảng năm mươi cha Ḍng Tên. Tuy đây là lần đầu tiên
tôi đi tham dự đại hội quốc tế, chẳng có phút nào tôi cảm thấy cô đơn lạc
lơng cả, v́ duờng như, chúng tôi chia chung một lư tưởng, hịêp nhất với
nhau trong một niềm tin, nên ngay từ đầu, tôi đă cảm thấy như cá nằm trong
nước, như con cái trong một gia đ́nh. Có điều đây là lần đầu tiên trong
đời, tôI gặp cùng một lúc nhiều cha Ḍng Tên và được tiếp xúc với nhiều
văn hóa như vậy. Để hiểu nhau, chúng tôi đối thoại trong ba ngôn ngữ
chính: Anh, Pháp và Tây Ban Nha. Ngày đầu, sau lời chào mừng của World
Exco, các đại biểu các quốc gia thay phiên nhau mang một vật liệu biểu
dương cho quốc gia ḿnh. Hôm đó, anh Văn Đ́nh Tuấn (đại diện cho Phong
Trào Đồng Hành đến đại hộI tham dự như một cảm t́nh viên) mang bức tranh
h́nh chữ ‘S’ biểu dương cho nước Việt Nam ḿnh. Tôi rất mừng đă gặp lại
anh Tuấn, thầy Tuấn và anh Quang. Sau đó th́ World Exco và cha Thành có kể
lại những thực hiện đă làm sau lần đại hội 1994 ở Hồng Kông. Trong bốn năm
qua, Cha Thành đă đi nhiều nơi huấn luyên về thế nào là ơn gọi CLC, thế
nào là common mission và nhận định ơn gọi cộng đoàn. Ngoài ra, cuốn
CLC-our charism-đă ra đời và một chương tŕnh huấn luyện khá ‘cao siêu’
mang tên ‘Magis’ đang được thành h́nh do sự đóng góp của nhiều quốc gia
tại Nam Mỹ. Tôi thầm thán phục những exco-members đă hy sinh không biết
bao nhiêu thời giờ và công sức cho phong trào CLC. Mấy ngày đầu, h́nh như
Chúa Thánh Thần thổi nên ai cũng như tôi, xông xáo đi làm quen và hỏi thăm
nhau, về các nhóm CLC địa phương, cùng vớI những thành quả và khó khăn của
nó. Những cuộc đối thoại này rất hữu ích và nó làm giàu kinh nghiệm cho
nhau. Ai nấy đều cởi mở ân cần và ngay cả những exco-members, họ cũng rất
là giản dị, dễ thương. Kỳ lạ thay, qua tới ngày thứ hai của đại hội, Chúa
làm tôi khóc gần cả ngày. Chắc các bạn thấy tôi sao mà ‘mít ướt’ quá! Thứ
nhất, tôi khóc v́ quá cảm động trước sự chia sẻ của bà Roswitha Cooper
(tổng thư kư). Trong gần bẩy năm, bà đă làm việc trong những điều kiện quá
giớI hạn (thiếu nhân lực, thiếu tiền), trước những nhu cầu càng ngày càng
lớn của phong trào. Lanny Virani (thủ quỹ) cũng nói lên sự thiếu thốn tài
chánh của CLC; hiện giờ, phong trào lệ thuộc nhiều vào ‘donations.’ Ông ta
kêu gọI các CLC quốc gia tự xét ḿnh nên đóng bao nhiêu tiền niên liễm và
làm sao ḿnh đạt tới con số đó. Xin mời các bạn đọc bài chia sẻ của bà
Roswitha và ông Lanny. Tôi cũng bị đánh động nhiều ở hai bài diễn văn của
cha H. Volken (ở Geneva) và cha D. Fitzpatrick (ở New York). Các ngài và
một vài CLC members là đại diện của phong trào CLC làm việc ở United
Nations và NGO, tranh đấu cho nhân quyền (human rights), cho quyền tự do
tín ngưỡng và những việc khác trong các lănh vực gia đ́nh và giới trẻ. Hai
cha Volken và Fitzpatrick nói một cách hùng hồn, múa chân múa tay tùm lum.
. .sau khi giảng xong, các ngài nói riêng vớI tôi rằng ‘Đó chỉ là một cách
nói nhẹ để bảo những ngườI sùng tín trong CLC nên thức tỉnh ra khỏi sự
ngây thơ về chính trị của họ’. Lời nói này cho tôi ư thức hai điều: 1/ Với
cương vị một người công giáo, tôi phải theo dơi những ǵ xẩy ra chung
quanh tôi (ngoài cái thế giới nhỏ của tôi) để thấu hiểu những căn nguyên
của các vấn đế mà thế giớI đang gặp phải. 2/ Một ḿnh tôi, tôi không làm
được ǵ cả; nhưng nếu cả phong trào CLC cùng lên tiếng chung qua hai tổ
chức UN và NGO th́ chúng ta có thể cải tiến xă hội này. Hôm đó (ngày thứ
hai của Đại HộI), trong những workshop groups nhỏ, chúng tôi bắt đầu nói
với nhau về những nhu cầu khẩn cấp của quốc gia ḿnh. Tâm hồn tôi lúc đó
đă sẵn sàng rộng mở và tôi cầu xin Chúa Thánh Thần soi sáng cho tôi biết
lắng nghe các nhu cầu trên thế giới cũng như tiếng Chúa muốn nói với riêng
tôi. Buổi chiều hôm ấy, chúng tôi dự thánh lễ do Á Châu làm. Đây là lần
thứ hai tôi khóc trong ngày. Tôi khóc v́ đă không tham dự với những người
Á Đông (Trung Hoa, Đại Hàn, Indonesia, Ấn Độ, Phi Luật Tân, Nhật, Việt
Nam) soạn Thánh Lễ v́ tôi là đại biểu cho CLC-French Canada. Bây giờ tôi
mới hiểu, bằng con tim, những ao ước của các anh chị Đồng Hành, nhất là
anh chị Cường Tuyết, hiểu tại sao các anh chị muốn nói lên cái đức tin của
ḿnh qua văn hóa Việt Nam. Lúc đó tôi mới ư thức được rằng: nếu Đồng Hành
chúng ta sát nhập vô địa phương, chúng ta sẽ mất cái identity của người
Việt Nam. Tạ ơn Chúa đă cho con hiểu điều này và cho con thông cảm được
với các anh chị Đồng Hành. Tuy vậy, tôi vẫn khuyên các anh chị Đồng Hành
nên cởi mở và sinh hoạt chung với địa phương, v́ như vậy, cả đôi bên đều
có thể làm giàu cho nhau và con cái ḿnh lớn lên ở xứ ngoài, nó không hẳn
là người Việt Nam như ḿnh, nhưng đức tin của nó có thể lớn lên trong môi
trường của nó. Trong những ngày thứ ba và thứ bốn của Đại Hội, chúng tôi
đă làm việc trong các workshops nhỏ (có bốn workshops chính: 1/ Christ and
growing in Christian life, 2/ Christand culture, 3/ Christ and social
reality, 4/ Christ and daily life) để t́m ra những nhu cầu khẩn cấp của
phong trào. Khi các nhóm nhỏ làm việc xong, th́ có môt commission gồm các
cha Ḍng Tên và giáo dân làm tổng kết. Riêng cá nhân tôi, tôi cảm thấy hài
ḷng với những nhận định này v́ nó trung thực với thực tế mà tôi đang
sống; thêm nữa, tôi cảm thấy thật may mắn được làm việc chung với các
‘experts’ trên thế giới về vấn đề huấn luyện (v́ tôi ở trong workshop 1).
Trong những ngày này, cha bề trên cả Kolvenbach đến dự đại hội và nói
chuyện với các đại biểu từng châu một. Đồng Hành Bắc Mỹ và Canada (Anh và
Pháp) được gặp cha Kolvenbach một lúc. Anh Tuấn thay mặt Đồng Hành tặng
cha một tượng gỗ Đức Mẹ và đồng thời nhanh nhẩu xin cha cho cha Thành giúp
các nhóm Đồng Hành hiểu lối sống CLC trong những năm sắp tới. Cuối ngày
thứ bốn của Đại Hội, các nhóm CLC-Brazil từ nhiều tỉnh khác nhau (có khi
xa hơn mười giờ xe đ̣) kéo tới Villa Kostka, chào world assembly và mừng
lễ juninas (lễ tháng sáu, vừa có sắc thái dân tộc vừa có sắc thái tôn
giáo). Trước đêm văn nghệ và dạ vũ, chúng tôi có một thánh lễ long trọng
do cha Kolvenbach chủ tọa. Trong thánh lễ này, các nhóm CLC Brazil tặng
cho các cha Ḍng Tên một cái khăn lễ choàng vai để nói lên sự hợp tác chặt
chẽ giữa các cha và giáo dân trong tương lai. Cả đôi bên đều ao ước có một
sự hợp tác chặt chẽ trong tương lai. Đến phần văn nghệ th́ thôi vui thật
là vui. Một người nhút nhát mắc cỡ như tôi mà cũng không chịu nổi cái điệu
nhạc vui nhộn và lôi cuốn của dân Brazilians. Đêm đó tôi nhẩy múa tùm lum
và nhiều khi đi điệu valse, rock’n roll và pasodople với că mấy cha Ḍng
Tên nữa. Không ngờ mấy ngài khiêu vũ cũng nhuyễn lắm! Ngày thứ năm, sau
bài diễn văn của cha Kolvenbach nói về sự hợp tác giữa giáo dân và Ḍng
Tên, các cha Tetlow, Tirado và Lestienne có tŕnh bày về các sinh hoạt của
Ḍng Tên trong phạm vi phổ biến linh đạo I-Nhă, giáo dục và phụng sự xă
hội. Xin mời các bạn đọc các bài diễn văn này. Cuối ngày, chúng tôi được
dự thánh lễ nhộn nhịp, nhẩy múa do ngườI Phi Châu soạn. Ngày thứ sáu và
thứ bẩy của Đại Hội, chúng tôi lại trở về làm việc chung vớI các workshops
để trả lời câu hỏi: ‘chúng ta, World Community, làm việc như thế nào trong
tương lai để phục vụ Chúa?’ Cũng như những lần trước, workshop của tôi bàn
luận tới lui. May nhờ có bảng đen trên tường nên chúng tôi suy luận và góp
ư chung. Tôi rất thích lối làm việc này và học hỏi được nhiều. Tôi nghĩ,
khi về lại Canada, với cương vị một người phụ trách trong ban huấn luyện
CLC-French Canada, tôi đă thâu lượm được nhiều yếu tố căn bản quan trọng
để giúp các CLC members lớn lên trong đức tin. Trong hai ngày này, khi có
giờ cầu nguyện cá nhân, tôi thường đên nhà nguyện ‘Chúa Ba Ngôi’ nh́n ngắm
bức tranh vẽ trên tường. Tôi cảm nghiệm được sự nghèo nàn và nhỏ bé của
CLC và của tôi trước những nhu cầu khổng lồ của thế giớI qua sự nghèo nàn
và già nua của bà Sarah trong bức tranh. Nhưng tôi đặt hết niềm tin nơi
Chúa và nói với Chúa rằng: ‘Nếu Chúa có thể cho bà Sarah sinh con mặc dù
số tuổi của bà, th́ Chúa cũng có thể biến đổi con và CLC nói chung, bởi v́
chúng con chỉ ao ước được thuộc về Chúa một cách sâu đậm hơn.’ Lần này tôi
cảm thấy ánh mắt Chúa Giêsu có một sự thay đổi; tôi thấy Chúa đặt niềm tin
nơi chúng ta và trên gương mặt Ngài nhoẻn một nụ cười. Trưa ngày thứ bẩy
của Đại Hội, cha Thành và ba ngườI đại diện Đồng Hành mời tôi ăn cơm trưa
với vài người trong Exco (bà Mary Nolan, bà Ingeborg, bà Roswitha và ông
Lanny. Thiếu sự có mặt của ông Rosé Maria và bà Maria Clara, president và
vice-president của phong trào). Cuộc họp mặt riêng này để nói về Đồng
Hành. Họ đă đọc bài soạn của ban nghiên cứu và v́ hiện thời, trong phong
trào Đồng Hành chưa có những cộng đoàn muốn dấn thân theo lối sống CLC (mà
chỉ có một số cá nhân, rải rác khắp nơi), nên họ khuyên Đồng Hành nên xúc
tiến việc huấn luyện các members của ḿnh về ơn gọi CLC, với sự hỗ trợ hay
đỡ đầu của CLC Mỹ và Canada. Khi nào các nhóm cảm thấy sẵn sàng rồi, th́
lúc đó Đồng Hành có thể chính thức gia nhập vào CLC thế giớI với tính cách
Việt Nam. Tôi cũng chia sẻ với họ về kinh nghiệm của nhóm CEJ của tôi vớI
CLC-French Canada trong mườI năm qua và cái tâm t́nh của tôi khi đi dự
thánh lễ Á Đông như tôi đă kể trên. Tôi nghĩ, sự cởi mở của đôi bên (CEJ
và CLC-Canada) chắc cũng có làm cho họ an tâm một phần nào. Họp xong, thầy
Tuấn, anh Tuấn, anh Quang và tôi sung sướng, nhẹ nhơm quá; tưởng chừng như
đang gỡ được một khúc mắc lớn của Đồng Hành. Cùng vớI niềm vui đó, tôi
được hay một hung tin; những người CLC Bắc Mỹ nhờ Chris (một thanh niên
Mỹ) và tôi làm bài giảng trong thánh lễ do Bắc Mỹ soạn, để nói lên sự hợp
tác giữa giáo dân và các cha. Eo ôi, tôi run quá v́ nếu ai quen tôi từ lâu
th́ biết tôi rất rụt rè và nhút nhát. Bây giờ mà phải nói trước gần hai
trăm người, th́ thật quả là một challenge lớn cho tôi. Tối hôm đó về, tôi
ngủ không yên giấc, v́ chỉ có một ngày để soạn bài homily để người ta dịch
kịp ra ba thứ tiếng vào ngày thứ chín. Từ ngày thứ tám tới ngày thứ mười,
cuộc bầu cử về những structures của CLC và new exco-members bắt đầu. Trong
những ngày này, world exco và commission, làm đúc kết những ǵ gặt hái
trong các workshops, làm việc rất nhiều. Đôi khi, sau cả mườI hai giờ
khuya họ mới về pḥng. Thật tộI nghiệp cho họ. Khi bài tổng kết đó được
tŕnh bày cho world assembly, các quốc gia ai nấy đều hoan hỉ. Bài này tuy
chưa hẳn là final version, nhưng rất quan trọng. Tôi khuyên các bạn nếu
không có th́ giờ đọc các bài diễn văn kia, th́ cũng cố gắng đọc bài này v́
đó là đường hướng của phong trào trong ít nhất là năm năm tới. Đêm hôm thứ
tám, trong một thánh lễ b́nh thường, tự nhiên tôi cảm thấy b́nh an lạ
lùng. H́nh như Chúa hiện diện trong tâm hồn tôi, nhẹ nhàng như cơn gió
thoảng, tôi lại bật khóc. Chúa như an ủi tôi và nói:’ Nếu con thương ta,
th́ con sẽ có đủ can đảm chia sẻ tâm t́nh con trong thánh lễ Bắc Mỹ.’ Lễ
xong, về pḥng tôi lại nhận được một món quà của một bà bạn CLC Brazil mà
tôi mớI được quen (bà ta với tôi tuy không hiểu được nhau v́ bà chỉ nói
tiếng Portugese, nhưng cứ ôm nhau hoài) cùng vớI email của anh Bính (đề là
‘Chúc cô Lan nhiều ơn Chúa (grace) chứ không nhiều mỡ (grease).’ Tôi cảm
tạ ơn Chúa, v́ cùng một tối tôi được nhiều niềm vui. Tôi cảm thấy an tâm,
không sợ sệt ǵ nữa. Và thiệt, ngày thứ chín, trong thánh lễ Bắc Mỹ, tôi
đă chia sẻ tâm t́nh tôi một cách rất b́nh thản đến độ chính tôi cũng không
ngờ. Điều đó xác tín nơi tôi rằng: Chúa đang biến đổI con người tôi. Sau
thánh lễ ngày hôm đó, nhiều người đă đến khen và cám ơn lời chia sẻ của
tôi, nhưng tôi lại cảm thấy ḿnh chỉ là cái kính vitrail (stained-glass
window) trong nhà thờ, ánh sáng Chúa đi qua rồi để lại cái kính đen như
mực. Ngược lại với những ngày đầu xông xáo đến với ngườI khác, trong những
ngày cuối này, tôi thích đi dạo trong vườn một ḿnh, ngắm trăng sao, cây
cối và hưởng ánh nắng nhẹ nhàng của mùa đông bên Brazil. Chúa ơi, ở đây
đẹp quá! Con cảm thấy thật hạnh phúc khi ḥa ḿnh với vũ trụ. Con muốn giữ
măi trong tâm trí con cái vẻ đẹp tự nhiên của căn nhà này, lúc nó ồn ào
chứa đầy người, cũng như lúc nó thanh tịnh vắng vẻ. Trong ḷng con, buồn
vui lẫn lộn. Buồn cho những cuộc chia tay, không biết bao giờ gặp lại của
một số người mà con có dịp làm quen trong đại hội; vui v́ con cảm thấy
hạnh phúc quá và con cũng rất mong được về nhà với chồng con. Hôm thứ
mười, đại hộI được kết thúc bằng sự ra mắt của World Exco mớI, sự gia nhập
của ba quốc gia Cameroon, Đại Hàn và Lebanon và thánh lễ ‘sai đi’ đúng vào
ngày lễ Thánh I-Nhă (ngày ba mươi mốt, tháng bẩy). Thế là mọi người lại
chia tay nhau, mỗi người đi về một ngả. Cám ơn anh Hiệp và các con thật
nhiều, đă lo chuyện nhà dùm em lúc em đi vắng. Cám ơn CLC Canada đă góp
lời cầu nguyện và tiền bạc cho tôi đi dự convention này. Cám ơn cha Thành,
World Exco và support team đă cho tôi một kinh nghiệm World CLC thật tuyệt
diệu. Cám ơn tất cả mọi ngườI mà tôi đă gặp trong đại hội. Qua các bạn tôi
đă t́m thấy h́nh ảnh Thiên Chúa. Và. . . Tạ ơn Chúa thật nhiều đă luôn ở
cạnh bên con.
Dương Tú Lan
(Đồng Hành 1998, số 5 & 6, 7&8 trang 54-59) |
|
Center of Our Hearts
O God, what will you do to conquer the fearful hardness of our
hearts?
Lord, you must give us new hearts,
tender hearts,
sensitive hearts,
to replace hearts that are made of marble and of bronze.
You must give us your own Heart, Jesus.
Come, lovable Heart of Jesus. Place your heart deep in the
center of
our hearts
and enkindle in each heart a flame of love
as strong, as great,
as the sum of
all the reasons
that I have for
loving you, my God.
O holy Heart of Jesus,
dwell hidden in my heart,
so that I may live
only in you and
only for you,
so that, in the end,
I may live with you eternally in
heaven
Amen
St Claude La
Colombiere SJ
• • •
|
|