|
Ngày
nào chúng ta cũng cầu xin: "Ư Cha thể hiện dưới đất cũng như trên Trời."
Chúng ta hằng nhớ đến Đức Giêsu, khi Ngài cầu nguyện: "Abba Cha, xin đừng
làm điều con muốn, mà làm điều cha muốn" (Mc 14:36); nhưng ngay cả ngài
nữa cũng không dễ biết ư Cha. T́m kiếm "Thiên mệnh" là mục đích của nhiều
nghi thức trong các truyền thống tôn giáo. Nếu có một bộ Kinh điển, th́
chắc chắn mọi giáo hữu muốn tham khảo quyển sách t́m ư Thượng đế đă mặc
khải. Nhiều tín đồ hỏi thần thánh ở nơi linh thiêng và theo lời sấm
truyền, hoặc bói một quẻ xem sao. Kẻ th́ hỏi thầy tinh thần (guru), người
th́ tĩnh tọa suy niệm, hoặc khẩn nài xin ánh sáng, v.v. Những ao ước ấy
đích thực, v́ cho thấy ḿnh vô tri vô giác, bất lực trước đấng tuyệt đối
phải vâng phục. Đàng khác, chúng ta cảm thấy ḿnh bị giằng co về mọi phía
do nhiều "tinh thần" khác nhau, với những mục tiêu mâu thuẫn, đến nỗi càng
có thiện chí ḿnh lại càng thấy bơ vơ không biết quay vào đâu: phía nào
cũng có lư. Vậy th́ phải phân định các tinh thần, đó là điều không tránh
được (xem 1Gioan 4:1-3).
Chúng ta lo t́m ư Chúa có thể v́ ân sủng thúc đẩy chúng
ta luôn muốn thực thi thánh ư Chúa, hoặc có thể v́ lư do khác không cao
đẹp bằng. Đức tin dạy rằng ư muốn của Thiên Chúa là quy tắc tuyệt đối cho
nhân loại. Kinh Thánh có nhiều thí dụ. Thánh vịnh 119, dài nhất, chỉ có
một chủ đề là thánh ư Chúa. Tv 40:7-9 được thư Do thái áp dụng vào bản
thân Đức Giêsu, như chuẩn mực của cuộc đời này: ưu tiên tối cao của con
người là làm theo ư Chúa, chứ không phải theo những nghi thức thờ phượng.
V́ những ai kêu lên, "Lạy Chúa, lạy Chúa" chưa chắc sẽ vào thiên đàng,
song là những ai thi hành ư Cha ở trên trời mới được cứu rỗi (xem Mt
7:21). Đúng vậy, ai làm theo ư Chúa trở nên bà con với Chúa Kitô! (xem Mt
12:50). Đó là lư do tại sao các Kitô hữu, trên bất cứ điều khác, phải gắng
công thực hiện ư Cha ở trên trời.
Tâm lư học chứng minh rằng loài người ít khi làm điều
ǵ chỉ v́ một lư do thuần khiết. Chúng ta có khuynh hướng bẩm sinh muốn lo
cho ḿnh được an toàn bảo đảm; giáo hữu muốn biết "chắc chắn" đó là ư
Chúa, v́ làm theo ư Chúa là "vé" vào nước trời. Đa số các tín hữu mắc phải
bệnh "kém tin" (xem Mt 6:30; 8:26; 14:31; 16:8), khiến họ không tin tưởng
vào bàn tay nhân ái của Cha Cả, không dám liều ḿnh vào ḷng Người. Tệ hơn
nữa là than vọng bí ẩn thao túng Thiên Chúa: cách cực đoan là tội ảo
thuật; nhưng cũng có thái độ có vẻ trong trắng là cứ thử mặc cả với Chúa:
con làm ư Chúa th́ Chúa làm ư con nhé! Con ngoan ngoăn rồi th́ khi con xin
Chúa phải cho. Ḷng trung thành đă bị dùng như con chủ bài.
Kinh nghiệm tôn giáo có tính cách cá nhân đến nỗi không
ai có thể nói thay cho ai: mỗi người chỉ có thể nói về chính ḿnh thôi.
Tuy nhiên Chúng ta có thể nói cái ǵ khả dĩ áp dụng (ít ra là một phần
nào) cho tất cả mọi người. Thành thật t́m kiếm ư Chúa, đó là nguồn ân tâm
b́nh tĩnh. Nếu lúc xét ḿnh trước khi đi ngủ tôi thấy ḿnh hết ḷng ráng
làm đẹp ư Chúa, th́ chắc chắn tôi có thể dự kiến được những giấc mơ ngọt
ngào. Các tôn giáo khác nhau theo những lối khác nhau để đạt đến sự b́nh
tâm này. Có "lối tiêu cực" của đạo Phật nghĩa là tiêu diệt mọi ham muốn,
v́ ai không mong muốn ǵ th́ cũng không đau ḷng khi thiếu. Cũng có "lối
tiêu cực" Kitô giáo, không ham muốn điều ǵ hết để trở nên tự do mà theo ư
Chúa. Hoặc cách "tích cực" t́m ư Chúa theo lối nhận định (discernment.) Cả
hai lối đều có thể tốn kém, v́ - như người ta nói - ân sủng không rẻ đâu.
MỗI người phải thử xem lối nào thích nghi hơn với ḿnh. Trong truyền thống
Công giáo, các thánh đă tŕnh bày những phương pháp nhận định, mà sau này
trở nên những nền linh đạo, như Phanxicô, Biển Đức, Cát Minh, I-Nhă, Thánh
Linh, v.v. Tùy tính t́nh, mỗi người cảm thấy thoải mái hơn trong một linh
đạo; tuy nhiên nên thí nghiệm và xét kỹ kết quả suốt một thời gian, v́
đường dễ chưa chắc là đường chính. Kinh nghiệm thiêng liêng được dựng bằng
các sự việc nhỏ, v́ chúng ta thường không làm nhiều phép lạ! Ai quen
nhận ra Thần khí trong những chọn lựa nhỏ, th́ đă có được con mắt sáng
suốt lúc phải đứng trước ngă ba sinh tử.
Trong bài này cũng nên ngỏ đôi lời về một kinh nghiệm
đau đớn là sự ngại ngừng đến nồi làm tê liệt (scruples) trong đời sống
thiêng liêng. Vốn là tật bệnh của những linh hồn tốt đẹp và lương tâm tinh
khiết; kẻ nhẫn tâm hoặc thờ ơ đâu có kinh nghiệm ấy. Ao ước t́m kiếm ư
Chúa là điều tốt; nhưng lo quá chừng mức th́ có thể gây rối. Nó có the^?
là hậu quả cuả thái độ muốn luôn luôn làm điều tốt nhất, mà quên mất rằng
"tốt nhất" lắm khi nghịch với cái tốt đơn giản. May mắn cho chúng ta, Chúa
không hề đ̣i hỏi chúng ta phải luôn luôn làm điều tốt nhất. Cái tật "ngại
ngùng đến nỗi làm tê liệt" ấy cũng có thể phát sinh từ tật luôn luôn muốn
biết chắc chắn ḿnh đúng, nhưng lại quên rằng chúng ta bao giờ cũng sống
trong đức tin tối tăm. Thiên Chúa là Cha muốn con cái Người làm theo ư của
họ, v́ tin chắc con thảo nào tự nhiên cũng muốn điều Cha ḿnh muốn. Dù
sao, nếu lỡ như ḿnh mắc tật ấy, th́ phải nhờ bạn giúp - và để người có
kinh nghiệm - một Cha linh hướng - dắt tôi ra khỏi khủng hoảng. Và nếu gặp
ai trong trường hợp ấy th́ phải biết thương xót và nhân ái thông cảm, v́
kinh nghiệm scruples đau đớn lắm.
Linh đạo I-Nhă đă chú tâm đặc biệt đến vấn đề phân
định. Chắc là ai ai trong Đồng Hành đều quen các nguyên tắc "nhận định
thần loại" trong sách Linh Thao. Ở đây tôi chỉ nêu bật hai điểm: cầu
nguyện riêng và chia sẻ với những người khác. Muốn được thân mật với Thiên
Chúa trong cầu nguyện th́ giả thiết phải thành "đồng bản tính" với Người
một phần nào, nghĩa là cách tự nhiên cảm thấy ư thích của Người, và lấy
la`m thoải mái khi thực thi ư Người ."Phân định thần khí" (1Cr 12:10) là
một đoàn sủng ḿnh phải khẩn khoản xin cho được. Khi đề cập đến việc chia
sẻ, tôi muốn nói t́m kiếm ư Chúa cùng với người khác, chứ không một ḿnh.
"Người khác" ấy có thể là người linh hướng, nhưng cũng có thể là một "bạn
hữu trong Chúa" đồng hành tới mục đích chung. Đối với tôi, thái độ then
chốt ở đây là tâm hồn rộng mở để đón nhận "ơn lời khuyên" của một anh chị
em. Thánh I-Nhă là một người "chuyên môn chia sẻ." Ông khởi sự bằng cách
chia sẻ kinh nghiệm thiêng liêng với người khác, rồi kiếm người bạn bè
cùng bước với nhau trên đường chia sẻ ấy. Phương pháp đặc thù của ông là
bày tỏ lương tâm với cha linh hướng hay bề trên, nhờ đó ḿnh được dẫn dắt
một cách hữu hiệu hơn trên đường t́m ư Chúa. Có lẽ nền tảng thần học của
điều này là Thiên Chúa vốn là sự chia sẻ tuyệt đối: Mỗi Ngôi Vị mở ra và
tự chia sẻ ḿnh hoàn toàn với hai Ngôi Vị khác, khiến Ba Ngôi hiệp thông
với nhau cách tuyệt đối. Vậy, chúng ta càng trở nên giống như Thiên Chúa
th́ càng biết rơ ư Người. Trong lịch sử, kế hoạch cứu độ cũng mở ra cho
con cái Chúa góp phần tự do, nghĩa là ư Chúa hàm sức ư ta, như thể Chúa để
sứ mệnh Người c̣n dang dở và cho chúng ta tự do hoàn tất công việc. Trong
linh đạo I-Nhă ư niệm magis, ("hơn") đóng vai tṛ quan trọng. Khẩu hiệu
"để vinh quang Thiên Chúa hơn," chỉ đường ta đi; tôi ư thức những giới hạn
của tôi: tôi đành ḷng biết ḿnh không thể làm điều tốt nhất, nhưng có thể
làm điều tốt hơn, với khả năng tiến bộ luôn luôn, v́ măi măi bất toàn.
Trong hoàn cảnh này tôi phải lấy ư tôi mà làm đẹp ḷng Chúa, dù không biết
chắc chắn là như vậy. Số phận loài người là chỉ biết ư Chúa một cách "tạm
được", và như thế là đủ cho tôi dùng sáng kiến mà phụng sự Chúa.
Một vài tiêu chuẩn khách quan chỉ đường đi như các tín
hiệu ở xa lộ. Tôi chỉ ám chỉ đến hai chuyện: quy phạm chính thống (cái ǵ
nghịch với đức tin không phải là ư Chúa: xem 1Cr 12:3; 1Gioan 4:3), v́ chỉ
thị của Giáo Hội (lúc tôi do dự, vâng lời Giáo Hội chắc sẽ không sai).
Cuối cùng, vấn đề "ư Thiên Chúa" thành vấn đề "quyết
định của tôi." Hiếm có ai t́m ư Chúa cách thuần túy; thường mang ngầm lư
do ích kỷ. Lắm khi chúng ta sợ trách nhiệm về sự quyết định; dù sao, mỗi
khi chúng ta chủ trương làm theo "ư Chúa," hoặc có ư thức, hoặc vô ư thức,
thật ra chúng ta làm theo ư ḿnh, chỉ hy vọng ư đó của ḿnh trùng vơi ư
Chúa. Thiết tưởng trước khi t́m biết ư Chúa, chúng ta phải trung thực phân
tích quá tŕnh của những quyết định của chính ḿnh, động cơ của những hành
vi, những sở thích ẩn kín của ḿnh, v.v. Thiên Chúa dựng nên tôi như một
bản vị, tức là một nguồn cội khải dĩ tự do quyết định, và Người muốn tôi
cư xử như vậy. Nếu ai tin Thiên Chúa tạo ra loài người tự do mà bây giờ
lại cấm chúng ta dùng quyền tự do ấy th́ có vẻ lộng ngôn. Một "người
thiêng liêng" (spiritual person) là người sẵn sàng chịu trách nhiệm về
hành vi của ḿnh, và khiêm nhượng cậy rằng ư ḿnh cũng là ư Chúa.Tâm trạng
này mang b́nh an cho linh hồn, đồng thời cần thiết cho đời sống nhân bản
và tôn giáo. Dù tôi có sai lầm trong một dịp cụ thể nào đó, tôi vẫn c̣n
vững ḷng quyết định theo ư Chúa, tùy khả năng của tôi, nghĩa là trong sự
tối tắm của đức tin. Dù hành động tôi sai lầm, tôi vẫn c̣n đúng đắn, v́
tôi theo lương tâm và mở ḷng ra cho Thần Khí sử chữa - qua những người
khác - và dẫn dắt tôi trên đường Chúa muốn.
Xin kết thúc với một nhận xét hiểu nhiên: dẫu lựa chọn
điều ǵ và theo phương pháp nào, bạn đừng bao giờ quên cái "bậc thang giá
trị" là kim chỉ nam: động cơ tột cùng của hành vi Kitô là tinh yêu (xem
1Cr 13: 1-3; Ep 4: 14-16). Ai để t́nh thường dần lối, th́ hiếm khi bị lạc
đường.
Felipe Gomez SJ
(Đồng Hành
2000, số 4 trang 8-9)
|
|
May I be worthy
of your trust
For some strange reason, Lord, you depend upon me.
What possible need could you have for my shoulder?
Why should you lean on me? Yet you do just that.
I am
grateful. It is a challenge and a trust,
an inspiration and a call to character.
If you are
willing to depend upon me,
weak and clumsy as I am,
I am eager not to fail you.
Lean on me,
dear Lord.
At least pretend to find me a help.
May your sweet pretense
make me worthy of your very real trust.
Daniel A. Lord SJ
• •
•
|
|