"T́nh yêu của Chúa là
như thế này: không phải chúng ta đă yêu mến Thiên Chúa trước, nhưng Ngài
đă yêu chúng ta trước và đă gởi Con của Ngai đến làm của lễ xá tội cho
chúng ta..." (1 Gio 4,10).
Thế đấy bạn ạ. T́nh Yêu của Ngài là T́nh
yêu nguồn mạch, t́nh yêu làm cho đối thể được hiện hữu và tồn tại.
Ngài yêu ta nên ta mới có mặt trên đời để
đón nhận t́nh yêu ấy.
Ngài yêu ta nên mới đeo đuổi ta đến nỗi gởi
con của Ngài đến làm lễ xá tội mà cho ta được quay mặt lại với Ngài sau
khi ta đă quay lưng.
Bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta
là Đức Kitô, khi chúng ta là kẻ tội lỗi, đă chết v́ chúng ta (x.Rom 5,8).
Điều kỳ diệu nhất là Ngài không muốn chiếm
hữu chúng ta như một đồ vật, nhưng cho chúng ta tự do đón nhận hay từ
chối. Cả bằng chứng lớn nhất Ngài đưa ra cũng chỉ mang tính mời gọi: "Ai
tin vào Người Con ấy th́ sẽ được sống..."
Ngài chấp nhận chơi ú à và cút bắt với
chúng ta để chúng ta nhận ra t́nh yêu của Ngài và tự mở ḷng, mở tay mà
đón Ngài, sà vào ḷng Ngài.
Và Ngài mời gọi chúng
ta phải yêu như Ngài đă yêu.
"Nếu các con yêu mến
những ai yêu mến các con, th́ có đáng công trạng ǵ đâu... hăy hoàn thiện
như Cha các con trên trời" (Mt 5,46-48). Muốn hoàn thiện như Cha trên trời
th́ "tất cả những ǵ các con muốn người ta làm cho các con, các con hăy
làm cho người ta trước đi!" (Mt 7,13). Đó là cách giải thích chính xác và
đầy đủ nhất giới răn "yêu người như chính ḿnh". Nếu lấy ḿnh làm thước
đo, th́ phải đo cho người trước, ḿnh muốn người ta làm cho ḿnh cái ǵ
th́ hăy làm cho người ta trước đi, không phải để rồi người ta làm lại cho
ḿnh đâu, nhưng để nên giống Cha, nên hoàn thiện như Cha trên trời thôi.
"Cha đă yêu thương Thầy thế nào, Thầy đă thương các con như vậy. Thầy đă
yêu thương các con thế nào, các con cũng hăy yêu thương nhau như vậy".
Bắt chước Ngài ở điểm này thật khó, bởi v́
nó ngược với tính tự nhiên, tính tự kỷ trung tâm của ta: muốn ḿnh là cái
rốn của trái đất, mọi người, mọi sự phải vừa ư ḿnh, nếu không th́ không
chấp nhận. Yêu người yêu ḿnh, người vừa ư ḿnh, vừa mắt ḿnh... c̣n không
thế th́ ghét, th́ chê, th́ xa lánh.
Chúa Giêsu đă đến với những người, mà người
đời xa lánh, ruồng bỏ: những người phong cùi, những người bị xếp hạng là
tội lỗi, những người nghèo... và sự hiện diện của Ngài thay đổi họ, làm
cho họ được sạch, tha tội cho họ, chia sẻ nỗi cùng khổ của họ, an ủi họ,
loan tin mừng cho họ. "Ngài đă nên nghèo hèn để chúng ta được giàu sang".
Bắt chước Ngài điều này khó ở bước đầu, v́
nó trái với tính tự nhiên của ta, khó ở bước sau, khi ta đă nếm mùi vong
ân, sự hất hủi. Chính Chúa Giêsu đă trải qua nỗi đau ấy: Ngài cảm thấy
ḿnh là "cung đàn lạc điệu", giống như đám trẻ không ăn cánh với nhau khi
nô đùa trên công viên, thổi sáo điệu vui th́ không chịu nhảy, xướng điệu
buồn th́ không chịu khóc. Nếu chúng ta sống như Ngài đă sống và yêu như
Ngài đă yêu th́ thế nào chúng ta cũng phải nếm thân phận "cung đàn lạc
điệu", v́ "không giống ai".
Từ ngàn xưa vẫn như thế bạn ơi. Ngưu tầm
ngưu, mă tầm mă. Người chính trực là cái gai trước mắt kẻ gian ác (Kng
2,12-20).
Thế giới hôm nay và xă hội này cần thứ t́nh
yêu đi trước ấy để thoát khỏi chiến tranh hủy diệt và khỏi sự tan ră. Khi
người ta cố nén cái tôi xuống bằng cách không cho nó đất sống th́ nó bùng
lên để độc chiếm tất cả. Mỗi người chỉ c̣n lo cho ḿnh, cho gia đ́nh ḿnh
trước đă, c̣n xă hội, đất nước th́ để người khác lo, bởi v́ họ thấy chẳng
ai thiết thực lo cho họ và gia đ́nh họ. Báo chí hằng ngày nêu đầy những
chuyện "cha chung không ai khóc". Sự thờ ơ với số phận người bên cạnh, với
tương lai của dân tộc đă tới mức báo động. Đau thương, nghèo đói quá
nhiều, những con tim khối óc và những bàn tay để săn sóc, chữa chạy th́
quá ít.
Cuộc sống buồn,
đau, khổ, quá nhiều
Tâm hồn, thể xác biết bao nhiêu
Trăm mắt, ngh́n tay không chữa hết
Vạn nỗi sầu thương đủ trăm chiều.
Yêu mến từng con
người
Đặc tính thứ hai của
t́nh yêu như Ngài đă yêu, là yêu từng con người nhỏ bé nhất, hèn kém nhất.
Ngài không yêu thương loài người một cách chung chung, nhưng là từng con
người. Thông điệp đầu tiên của Đức Gioan Phaolô II mang tên "Đấng cứu
chuộc con người" nhấn mạnh điều này.
Chúa Giêsu trân trọng từng con người nhỏ bé
và dạy môn đệ chớ coi thường một ai. Chúa tự đồng hóa với mỗi con người
nhỏ bé nhất: "Mỗi lần các người làm như thế cho một trong những người nhỏ
bé nhất này là làm cho Ta vậy" - và mỗi lần các ngươi không làm như thế
cho một trong những người nhỏ bé nhất này là các người không làm cho Ta
vậy" (Mt 25,40-45). "Ai đón tiếp một người nhỏ bé như thế này nhân danh Ta
là tiếp nhận Ta đấy" (Mt 18,5-10).
Trên đường Chúa đi, Chúa đă chẳng làm ngơ
trước một con người nào đang đau khổ: kẻ phong cùi mà mọi người xa lánh,
kẻ mù bị mọi người khinh chê, người mẹ giá khóc thương con một, người cha
có đứa con động kinh, viên sĩ quan có người đầy tớ thân tín bị bệnh...
Ngài âu yếm như mẹ hiền cúi xuống từng đứa con mà săn sóc ân cần chắt
chiu.
Ngày nay, người ta
hay nói đến đồng bào, đến dân tộc, nhưng người ta lại ít khi nhận thức
được rằng dân tộc, đồng bào không phải là cái ǵ trừu tượng vu vơ, mà là
những con người máu đỏ da vàng đang chen chúc bên nhau trên mảnh đất quê
hương h́nh chữ S này. Người ta sẵn sàng hy sinh v́ đất nước nhưng lại khó
nhường nhịn yêu thương người đồng bào bằng xương bằng thịt đang sống bên
ḿnh. Người ta vỗ ngực là người phục vụ nhân dân, nhưng nhiều khi quên
rằng nhân dân là con người đang đau khổ, đang đói, đang khóc trước mặt
ḿnh, đang cần được ḿnh giúp đỡ. Mỗi lần đọc kinh Mười Điều Răn, ta nhắc
lại hai điều: "trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau là
yêu người như ḿnh ta vậy", nhưng ta lại quên rằng, người mà ta phải yêu
như ḿnh ta vậy lại chính là con người bằng xương bằng thịt đang đứng bên
ta, đang chen lấn ta ở cửa hàng, ở quầy vé, thậm chí đang làm phiền ta,
đang thù ghét ta...
Yêu mến thiết thực
Yêu mến từng con
người chỉ thành sự thực khi yêu mến một cách thiết thực. Chúa Giêsu đă yêu
mến tất cả và mỗi người Ngài gặp một cách thiết thực. Ngài chẳng để họ về
không mỗi khi họ tiếp nhận Ngài. Người mù được sáng, kẻ què đi được, người
điếc nghe được, người câm nói được, người mẹ mất con được lại con, người
chị mất em đuợc lại em, thậm chí đám cưới đang lúng túng v́ thiếu rượu
cũng được Ngài cho rượu tràn trề. Ngài quan tâm cả tới nỗi mệt nhọc của
môn đệ và đưa họ đi nghỉ dưỡng sức, Ngài quan tâm cả tới những yếu đuối
của họ để sửa dạy và nâng đỡ. T́nh yêu của Ngài thiết thực như một người
mẹ hiền săn sóc con cái. Trong chuyện kể về ngày phán xét, Ngài kể ra
những điều thiết thực: cho ăn, cho uống, cho mặc, thăm viếng...
Các tông đồ cũng nhắc người ta những điều thiết thực ấy và bác bỏ thứ yêu
thương bằng lời nói đầu môi chóp lưỡi (1 Gio 3,16-18). Để có thể đi tới
chỗ hiến mạng sống ḿnh v́ anh em, trước tiên phải tập từ những cái nho
nhỏ: quan tâm tới và chia sẻ những cái nhỏ bé hằng ngày với ḷng mong muốn
anh em ḿnh được hạnh phúc, vui, sướng, "được sống và sống dồi dào hơn".
Vui v́ niềm vui của người khác, buồn nỗi buồn của người khác: "Vui với
người vui, khóc với người khóc". Hiến mạng sống là biến cố cuối cùng, hành
động cuối cùng, nó chỉ có thể xảy ra khi người ta đă biết cho đi từng giây
phút, từng miếng cơm, từng tấm áo, từng lời an ủi... Thánh Maximilien
Kolbe đă trải qua tất cả quá tŕnh ấy cho tới hành động cuối cùng, nên
hành động cuối cùng của ngài cũng tự phát và nhẹ nhàng, giản dị như là
nhường một miếng ăn, một ngụm nước vậy thôi, không cần lư luận, đấu tranh
nội tâm... bởi v́ ngài đă sẵn sàng như thế từ lâu, giống như một kiếm sĩ
tài ba xuất chiêu cuối cùng của ḿnh cũng nhẹ nhàng như chiêu mở đầu.
Chỉ khi ta đă biết yêu quí người khác một
cách đích thân và thiết thực, biết quí và trân trọng mạng sống và hạnh
phúc của người khác, mong cho họ được sống dồi dào hơn, được hạnh phúc
hơn, và thực hiện lời Chúa dạy: "Điều ḿnh muốn người ta làm cho ḿnh th́
hăy làm cho người ta trước đi!", lúc đó ta mới có thể đặt mạng sống và
hạnh phúc của người khác trên mạng sống và hạnh phúc của ḿnh, và sẵn sàng
theo Chúa Giêsu đến bằng chứng lớn nhất của t́nh yêu.
Khi ta biết yêu như thế, th́ ta cũng sẽ
biết quí trọng vạn vật, sẽ có thể gọi là anh mặt trời, chị hằng nga, và
muôn loài sinh vật đều là "anh em", đều chung hưởng sự tốt đẹp và đáng yêu
của chính Thiên Chúa. Ta sẽ gặp thấy Thiên Chúa trong mọi sự.
Yêu thương và Thánh
Thần
Khi ta yêu mến từng con
người một cách thiết thực như thế, ta sẽ hiểu được những đặc tính hoặc
thái độ của bác ái mà thánh Phaolô kể trong 1 Cor 13,4-7. Tất cả là tiếp
nhận và trân trọng một con người và tự coi ḿnh là kẻ phải phục vụ con
người ấy như Chúa Giêsu, Đấng "đă đến để phục vụ chứ không phải để được
phục vụ". "Người lớn nhất trong các con phải làm đầy tớ mọi người" (Mc
10,41-45).
Khi ta cư xử như thế ta là kẻ phục vụ, tất
nhiên ta phải rộng lượng, mau mắn giúp đỡ, khiêm tốn lịch thiệp, không nổi
giận, không chấp nhất điều ǵ: tin tất cả, hy vọng tất cả và chịu đựng tất
cả. Đó là những tính cách của một tiếp viên mà bất cứ cơ sở giao dịch nào
cũng muốn có được. Nếu có lần nào bạn đă gặp một tiếp viên hàng không, du
lịch, pḥng giao dịch của các công ty lớn ở các nước văn minh, bạn sẽ hiểu
được người môn đệ của Chúa bao giờ cũng phải như thế và ví ai cũng phải
như thế, bởi v́ bạn là tiếp viên của Chúa, bạn phải đón nhận mọi người thế
nào để họ hài ḷng về Chúa của bạn, có cảm t́nh với Chúa của bạn, và như
cảm thấy được chính Chúa tiếp vậy, cũng như người tiếp viên giỏi làm cho
khách hàng có cảm t́nh với công ty của ḿnh...
Nhưng nếu bạn ṭ ṃ đối chiếu đoạn 1 Cor 13
trên đây với Gal 5,19-24 th́ bạn lại khám phá được một điều thú vị nữa, đó
là những tính cách của Đức Ái lại chính là hoa trái của Thánh Thần. Vậy
th́ ḷng yêu thương, đức ái trong ta là một tác động, một ơn của Thánh
Thần. Thánh Thần giúp ta giết chết những tính cách của con người xác thịt
luôn trái ngược với đức ái, và giúp ta sống theo t́nh yêu xuất phát từ
trái tim Thiên Chúa. Thánh Thần chính là t́nh yêu nối kết Cha với Con, và
cũng là T́nh Yêu nối kết ta với Cha và Con, làm cho ta gọi Thiên Chúa là
Cha và sống làm con Thiên Chúa (Rm 8), đồng thời làm cho ta nhận ra người
khác là anh em và sống như người anh em của mọi người, như Chúa Giêsu đă
đến trần gian để làm người anh em của mọi người (coi Heb 2,10-18).
Điều này dẫn ta đến một đặc tính khác trong
t́nh bác ái: chia sẻ chứ không ban phát. "Tất cả chúng con là anh em với
nhau". Chỉ có Cha trên trời là Đấng ban phát cho mọi loài và mọi người,
bởi v́ Ngài là nguồn mạch mọi sự tốt lành, c̣n chúng ta là con cái, tất cả
những ǵ ta có đều là nhận được: "Anh có ǵ mà không phải là do nhận được
không?" Tính chất riêng của Cha là cho, của con là nhận. Nếu tất cả cùng
nhận của Cha th́ chỉ có thể chia sẻ lại cho nhau chứ không phải là phân
phát.
Chính Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa đă muốn
nên anh em với chúng ta và chia sẻ cho chúng ta những ǵ Ngài đă nhận của
Cha: Mọi sự của Cha là của Con, mọi sự của Con là của Cha". Ngài đến chung
với chúng ta thân phận con người để chia sẻ cho chúng ta phận Con Thiên
Chúa của Ngài: "Phàm là con cái th́ cùng chung huyết nhục, nên Ngài cũng
chung phần huyết nhục với chúng ta". Thậm chí Ngài đă thông phần chịu thử
thách như chúng ta để có thể cứu giúp những kẻ bị thử thách (Dt 2,10-18).
Thái độ chia sẻ tự nó
bao hàm sự tôn trọng: tôn trọng anh em v́ cùng nhau đứng trước mặt Cha như
con cái; tôn trọng những ǵ ḿnh có, v́ là của Cha ban cho; đồng thời cũng
bao hàm sự quảng đại nữa, bởi v́ không phải là của riêng ḿnh mà là của
Cha trao, cũng không phải cho người xa lạ, mà là chia cho anh em chung một
Cha.