|
Vào tháng 11 năm 1848, các cuộc cách mạng
bạo động sôi xục diễn ra trên khắp Âu Châu cuối cùng đă lan tràn tới Rome.
Những người quá khích đă ám sát thống đốc tiểu bang và bao vây Ṭa Thánh.
Đức Thánh Cha Piô 9 phải thoát đi lánh nạn ở Ghêta, thuộc vương quốc
Naples.
Ba tháng sau đó, ngay trong khi c̣n đang
phải đi tị nạn, Đức Piô 9 đă gửi cho tất cả các Giám Mục trên khắp thế
giới một bức thư tựa đề Ubi Primum. Điều đáng ngạc nhiên là
Đức Piô đă không dùng lá thư để nói đến việc ngài đi tị nạn hoặc những
khủng hoảng chính trị và xă hội đang đe dọa Giáo Hội, nhưng là để mời tất
cả các Giám Mục cùng cầu nguyện và góp ư với ngài trong việc công bố tín
điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Chọn thời điểm này để công bố một tín điều
quan trọng, Đức Piô 9 đă chứng tỏ rằng Giáo Hội không hề bị lay chuyển bởi
những xáo trộn chính trị và những khủng hoảng xă hội.
Nhờ ḷng sùng kính Đức Mẹ một cách đặc
biệt, ngài đă đem Giáo Hội đi từ những lo âu đến vui mừng.
Đức Thánh Cha Piô 9 viết: "Đức Maria đă
luôn luôn che chở các tín hữu khỏi những hoạn nạn lớn lao nhất, khỏi những
cạm bẫy và tấn công của kẻ thù, đă cứu vớt họ khỏi mọi đổ vỡ ... Và tương
tự như vậy, trong t́nh h́nh hiện tại, Đức Mẹ mong muốn ngăn cản và xóa tan
mọi băo tố hiểm nguy của ác thần đang chống phá Giáo Hội."
Trải qua nhiều thế hệ, qua nhiều bàn luận
có khi rất gay go sôi nổi trong Giáo Hội, niềm tin nơi sự vô nhiễm nguyên
tội của Đức Mẹ vào thời gian đó đă trở nên hiển nhiên. Chẳng hạn, trước
đó ngay tại Mỹ vào năm 1846, các Đức Giám Mục đă nhận Đức Mẹ Vô Nhiễm là
bổn mạng của quốc gia Hoa Kỳ. V́ thế đối với Đức Piô 9, trên phương diện
đức tin, thời điểm để công bố tín điều quan trọng Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên
Tội đă chín mùi.
Trong khi đó tại Âu Châu, các cuộc cách
mạng ư thức hệ, các ảnh hưởng gia tăng của chủ thuyết vô thần, sự tôn thờ
khoa học và vật chất đă liên tục gây ra những khủng hoảng lớn liên tiếp
xảy ra từ Paris qua Frankfurt, Vienna, Budapest và Rome. Do đó tín điều
Đức Mẹ Vô Nhiễm đă chẳng được chú ư đến. Tuy nhiên, Đức Piô vững ḷng tin
nơi một sức mạnh âm thầm nhưng rất mạnh mẽ đang che chở Giáo Hội, dựa vào
một sự kiện mà ngài đă biết, là vào năm 1830, một nữ tu trẻ ở Paris đă
được diện kiến Đức Maria.
Đức Trinh Nữ hiện ra đầu mang vương miện và
mặc áo trắng tuyền, đứng trên qủa địa cầu, chân đạp trên đầu con rắn. Một
ṿng sáng h́nh bầu dục bao quanh Trinh Nữ, trên đó có hàng chữ "Lạy Mẹ
Maria tinh tuyền lúc thụ thai, cầu cho chúng con là những người chạy đến
xin Mẹ che chở."
Nữ tu, mà sau này trở thành thánh nữ
Catherine Labouré, đă nghe trong ḷng một lời chỉ bảo hăy làm mẫu ảnh dựa
trên những ǵ đă được diện kiến.
Đức Piô rất tôn kính mẫu ảnh này và ḷng
tôn kính đó đă thúc đẩy ngài khi thảo bức thư cho các giám mục như đă nêu
trên. Mẫu ảnh đó đúng là một hào quang huy hoàng nổi bật giữa những tăm
tối đang đe dọa Giáo Hội. Đức Maria đă tỏ ḿnh ra ứng nghiệm với tất cả
những điều đă được viết về Mẹ trong Kinh Thánh: một Evà mới trong sách
Sáng Thế Kư và một Hoàng Hậu trong sách Khải Huyền, nghĩa là từ đầu cho
đến cuối của toàn bộ Kinh Thánh.
Đức thánh cha Piô 9 trở lại Rome vào năm
1850 với ḷng cảm tạ Đức Mẹ đă che chở Giáo Hội trong những sóng gió vừa
qua. Ngài bắt tay ngay vào việc soạn thảo tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên
Tội, sau khi được các Đức Giám Mục nồng nhiệt phúc đáp thư của ngài. Đă có
tổng cộng 603 giám mục ưng thuận và chỉ có 4 vị không đồng ư.
Bốn năm sau đó, vào ngày 8 tháng 12, 1854
cùng với sự hiện diện của các giám mục trên thế giới, Đức Thánh Cha Piô 9
đă chính thức công bố niềm tin của Giáo Hội nơi việc Thiên Chúa đă tạo
sinh Đức Mẹ tinh tuyền, vô nhiễm nguyên tội.
Ngày nay giữa một thế giới khủng hoảng lan
tràn v́ xa đọa và chiến tranh hận thù, tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội
là niềm hy vọng của nhân loại.
Đức cha Fulton Sheen nói: "Tín điều Đức Mẹ
Vô Nhiễm Nguyên Tội được công bố vào thời điểm mà thế giới văn minh đang
mù quáng chạy theo những thần tượng đối nghịch. Kác-Mác cho ra đời chủ
thuyết cộng sản vô thần và đấu tranh giai cấp; Darwin phổ biến thuyết tiến
hóa, theo đó con người bắt nguồn từ loài vật, và John Stuart Mill chủ
trương một quan niệm cực đoan về quyền lợi cá nhân. Những chủ thuyết này
có cùng một ước vọng muốn gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi niềm tin của nhân
loại, cho rằng con người không cần đến Thiên Chúa. Họ phủ nhận tội tổ
tông và cho rằng con người tự ḿnh có khả năng trở nên toàn thiện.
Đức cha Fulton Sheen kết luận rằng: "Nói
cách khác, con người tự vỗ ngực cho rằng họ tất cả đều vô nhiễm nguyên
tội". Trong những ngày đi tị nạn, Đức Piô đă thấy trước chiều hướng nguy
hiểm này. Do đó khi soạn thảo tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, ngài
muốn soạn một hiến chương mới cho thế giới, để kháng cự lại những tà thần
của thời đại.
Tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội luôn
nhắc nhở chúng ta về sự nguy hiểm của ma qủi và tội lỗi, đồng thời cũng
cho ta một hy vọng, một lời hứa là chúng ta được che chở và bảo vệ.
Tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội đă khởi
sự một thế kỷ mới trong việc kính mến và tôn sùng Đức Trinh Nữ Maria, mà
cao điểm là việc công bố tín điều Đức Mẹ Hồn Xác lên Trời vào năm 1950.
Hai tín điều thật quan trọng: tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội khởi đầu và
tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời kết thúc cuộc đời Đức Mẹ ở trần gian.
Qua hai tín điều này Giáo Hội nhắn nhủ chúng ta nh́n vào gương của Đức
Mẹ để nhận ra ư nghĩa và cùng đích của cuộc đời. Nhờ ân sủng của Thiên
Chúa, chúng ta được cứu khỏi tội lỗi, được thánh hóa, được ban cho khả
năng biết yêu mến và được hứa cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu.
Sau cùng, chính Đức Mẹ là người đă xác tín
với chúng ta về tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội. Đầu năm 1858, tức là chỉ 4
năm sau khi tín điều được công bố, Bernadette một cô gái quê mùa và thất
học tại Lộ Đức, một làng nhỏ nơi miền núi Pyréné bên Pháp đă được diện
kiến Đức Mẹ. Khi được Bernadette hỏi tên, Đức Mẹ mỉm cười trả lời: "Ta là
Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội."
Vũ
Tiến
•
|
|
|