TÂM SỰ VỚI CHA I-NHĂ
Antôn-Phaolô, SJ
5 - Paris và nhóm thân
hữu (1528-1535)
Tôi hỏi tiếp: “Thế là cha đi Paris. Cha bắt đầu có ư lập
cộng đoàn từ lúc nào?”
Cha I-nhă trả lời: “Hồi ở Barcelona, khi suy xét có nên học
hành và học trong thời gian bao lâu, cha cũng nghĩ đến vấn đề là sau khi
học xong, cha nên đi tu hay đi khắp thiên hạ? Lúc suy tư về đời tu, cha
thường nghĩ đến một ḍng nào suy đồi, chưa cải tổ để được gặp nhiều thử
thách. Cha nhất mực tin rằng Chúa cũng sẽ cho cha đủ nghị lực để chịu
đựng mọi sỉ nhục và xúc phạm sẽ gặp phải. Suốt thời gian tại Salamanca,
cha vẫn ao ước giúp đỡ các linh hồn. Và để làm việc đó, cha phải để tâm
vào việc học hành đầy đủ hơn, đồng thời qui tụ thêm một số bạn bè cùng chí
hướng.
Cha đến Paris và đi học tại trường Montague để học lại
chương tŕnh trung học, v́ hồi trước cha đă học quá vội, thiếu căn bản.
Cha học chung với trẻ em theo phương pháp và chương tŕnh áp dụng tại
Paris. Nửa năm sau, hết tiền cha phải ăn xin và rời nhà trọ. Vừa đi ăn
xin, vừa đi học, cha chẳng tiến bộ được trong việc học hành. Khi bắt đầu
đi học, cha lại bị thử thách như khi c̣n học tiểu học tại Barcelona. Mỗi
lần nghe giảng bài cha không thể tập trung được v́ bị lo ra bởi các tư
tưởng đạo đức. Biết học như thế không có lợi ích bao nhiêu, cha tới gặp
giáo sư và hứa sẽ không bao giờ bỏ một giờ học nào bao lâu c̣n kiếm được
bánh ḿ ăn và nước uống đủ sống. Thấy cần phải có điều kiện tốt hơn, cha
cố gắng hết sức đi t́m việc làm, chạy vạy nhờ vả khắp nơi. Sau cùng, v́
không t́m được việc ǵ, một tu sĩ góp ư kiến cho cha là mỗi năm đi tới xứ
Flandres, ở lại đó hai tháng hoặc ít hơn, để quyên tiền sống suốt niên
học. Sau khi cầu nguyện, cha thấy giải pháp này hay. Cha đi và mỗi năm
đem về được một số tiền đủ để sống thanh bần. Có năm cha đi sang Luân đôn
và đem về được một số tiền kha khá.
Có đời sống tương đối ổn định, cha lại tiếp tục các cuộc
đối thoại thiêng liêng hăng hái hơn trước. Đồng thời hướng dẫn linh thao
cho các người bạn sinh viên ở trường Saint Barbe.
Về những người bạn ở
Salamanca, cha cũng đă cố gắng t́m cách để đưa họ sang Paris, nhưng cuối
cùng việc cũng không thành. Lúc đó cha có ư duy tŕ nhóm người đă quyết
tâm phụng vụ Thiên Chúa, nhưng không muốn t́m thêm người để tiện việc học
hành. Cha không hề kêu gọi lập một nhóm rồi mời người này người kia gia
nhập. Cha kết thân với từng người riêng rẽ và tiếp tục đều đặn gặp gỡ
riêng từng người. Mỗi sáng Chúa Nhật, cha và các bạn dự lễ chung. Sau đó
th́ gặp gỡ chia sẻ. Dần dần, có người bỏ, có người giữ. Khoảng đầu năm
1534, cha và 6 người bạn cùng chí hướng liên kết với nhau thành một nhóm
“bạn trong Chúa”: Phêrô Favre, Phanxicô Javier, Diego Laínez, Alfonso
Salmerón, Nicholas Bobadilla, và Simăo Rodrigues.”
Tôi hỏi người: “Làm sao cha kết thân với họ?”
Cha I-nhă trả lời: “Mỗi người Chúa gửi đến cho cha trong
những hoàn cảnh khác nhau. Năm 1529 cha đến ở trọ với hai bạn trẻ là
Phêrô Favre và Phanxicô Javier, và hay nói chuyện thiêng liêng với họ.
Favre gốc nông dân ở Savoie nên đơn sơ và dễ mến. Anh ta dạy kèm cho cha
môn triết học. Nhưng anh ta hay bị bệnh bối rối lương tâm, lần hồi cha từ
từ giúp cho anh t́m được b́nh an. Javier con nhà quư tộc lại giỏi nên
cũng không thích tiếp cận với một anh sinh viên vừa già, tàn tật, lại hay
bệnh hoạn. Mấy năm sau, qua linh thao cha thuyết phục được hai bạn này
quyết tâm phục vụ Thiên Chúa. Trong các anh em đă làm linh thao, Javier
cứng đầu nhất, nhưng khi đă mở ḷng th́ cũng là người nhiệt thành nhất.”
Tôi ngắt lời: “Con nghe nói lúc đầu Phanxicô Javier có
nhiều thành kiến với cha. Làm sao cha chinh phục được anh ta?”
Cha I-nhă gật gù: “Thật ra cũng không trách anh ta được.
Ḍng họ Loyola đă từng đem quân chiếm Navarra cho triều đ́nh Castile, c̣n
ḍng họ Javier th́ là quư tộc của Navarra. Trong trận đánh ở Pamplona,
ḍng họ Javier đứng về phe người Pháp. Người anh trai và mấy anh em họ
của Phanxicô đă từng chạm trán với cha trong cuộc chiến. Mấy tháng sau,
quân Tây Ban Nha phản công, và gia đ́nh Javier bị thất sủng ở Navarra.
Làm sao anh ta có cảm t́nh với cha được?
Thêm nữa, Phanxicô nuôi mộng công hầu khanh tướng. Giao du với anh sinh
viên già này th́ có ích lợi ǵ.
Sau khi tốt nghiệp bằng thạc sĩ, Phanxicô được bổ nhiệm làm
phụ giảng ở đại học Beauvais, lại thêm cái mác quư tộc, nên phải chi tiêu
nhiều. Lương lậu không đủ nên đôi lúc túng thiếu, cha lại ngầm giúp đỡ.
Cha cũng hay nhắc nhở Phanxicô phải cẩn thận trong vấn đề giao du kẻo gặp
những người “bề ngoài đạo đức trong ḷng tà tâm” lường gạt. Có lẽ v́ cảm
động trước chân t́nh của cha, hay bị mấy vố với các đồng nghiệp ở đại học,
nên từ từ anh ta mở ḷng.
Tôi hỏi tiếp: “C̣n những người khác, cha gặp họ trong hoàn
cảnh nào?”
Người trả lời: “Năm 1533, sau khi cha tốt nghiệp triết học
và có thể đi dạy kèm th́ gặp hai bạn trẻ đến từ Acalá: Diego Laínez quê ở
Almazán và Alfonso Salmerón quê ở Toledo. Mấy người này có lẽ đă nghe
biết về cha ở Acalá nên làm quen không khó khăn ǵ. Laínez rất thông
minh, c̣n Salmerón th́ vui tươi hoạt bát, hai người là một cặp bài trùng.
Mùa thu năm đó, Nicolás de Bobadilla quê ở Palencia lên Paris học. V́
không bà con thân nhân, cha giúp anh ta kiếm được một chân dậy kèm để đủ
tiền ăn học. Rồi anh ta cũng đi họp nhóm vào Chủ Nhật. Bobadilla tính
t́nh bộc trực hay thích tranh căi nên có nhiều người không ưa. C̣n Simăo
Rodrigues người Bồ Đào Nha th́ đă lên Paris từ lâu, nhưng măi về sau mới
ghé vào nhóm. Anh chàng này th́ im ỉm, nhưng cũng cứng đầu ra phết.
Lần lượt cha hướng dẫn từng người tập linh thao, khởi đầu
là Phêrô Favre vào đầu năm 1534. C̣n Phanxicô Javier th́ măi đến cuối
cùng mới chịu làm linh thao vào tháng 9. Kết quả tất cả đều muốn theo Đức
Kitô trong thanh bần và tận hiến để phục vụ tha nhân. Trong những ngày
được nghỉ học, nhóm trao đổi với nhau về Hội Thánh, về tương lai. Dần dần
một dự tính chung thành h́nh: tất cả sẽ làm linh mục và đi hành hương
Giêrusalem. Nhóm dự định sau khi các anh em hoàn tất việc học khoảng 3
năm sau (1537) sẽ cùng nhau đi Venezia và từ đó sẽ đến Giêrusalem, để làm
việc ở Đất Thánh. Nếu không đi được Giêrusalem nhóm sẽ chờ đợi một năm,
rồi sẽ trở về Roma tŕnh diện vị đại diện Chúa Kitô để Người sai chúng tôi
làm việc những nơi Người nhận thấy Thiên Chúa sẽ được vinh quang hơn và
các linh hồn được lợi ích hơn.
Quyết tâm và dự tính ấy được diễn tả qua lời cam kết tại
Montmartre lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, ngày 15 tháng 8. Lúc đó nhóm chỉ
mới có Favre là linh mục. Nhóm “bạn trong Chúa”của cha có 7 người, kể cả
cha, cam kết sống đơn sơ khó nghèo, khiết tịnh và đi hành hương Đất Thánh.
Năm đó (1534) cha được 43 tuổi, Favre và Javier 28, Bobadilla 25,
Rodrigues 24, Laínez 22, và Salmerón mới 19 tuổi. Mấy người bạn của cha,
mỗi người một cá tính, thế nhưng tất cả đều có ḷng nhiệt thành, hăng
hái.”
Tôi hỏi tiếp: “Sau đó th́ sao? Nhóm có thực hiện được ao
ước của ḿnh không?”
Cha I-nhă kể tiếp: “Hồi ở Paris, cha bị đau dạ dày trở
lại. Cứ mười lăm ngày cha lại đau và kéo dài suốt hơn một tiếng. Có lần
cha đau suốt mười sáu, mười bảy tiếng. Bệnh t́nh trở nên càng ngày càng
trầm trọng, không t́m được cách nào chữa trị, mặc dù đă thử nhiều cách.
Các y sĩ nói rằng chỉ có khí hậu ở quê nhà mới có thể giúp cha khỏi bệnh.
Các bạn cũng bảo như thế và khuyên cha về quê. Cuối
cùng cha chiều ư các bạn. V́ có một số bạn gốc Tây Ban Nha cần giải quyết
một số vấn đề gia đ́nh nên cha t́nh nguyện về quê lo giùm và hẹn gặp các
bạn ở Venezia để cùng đi Giêrusalem. Cha rời Paris năm 1535, một ḿnh cỡi
ngựa về Tây Ban Nha. Lo xong việc, cha t́m đường lên Venezia họp mặt với
nhóm. Đến Venezia, cha lo học cho xong thần học.
Sau khi cha rời Paris, Phêrô Favre làm trưởng nhóm. Các bạn
vẫn tiếp tục gặp thường xuyên và mỗi năm lập lại lời cam kết. Lúc này
nhóm có thêm ba người mới, tất cả là người Pháp. Favre đă giúp họ làm
linh thao và đưa họ vào nhóm: có hai linh mục là Claude Jay 30 tuổi người
cùng quê Savoie và Paschase Bröet 35 tuổi quê ở Picardy. Ngoài ra c̣n một
chủng sinh quê ở Provence tên là Jean Codure 28 tuổi.
V́ có chiến tranh giữa Pháp và Tây Ban Nha, nên các bạn
phải bắt đầu đi sớm hơn dự định. Các bạn rời Paris, chia làm hai nhóm nhỏ
về Venezia. Để an toàn, khi đi qua vùng người Pháp th́ các bạn nói tiếng
Pháp sẽ trả lời dùm cho nhóm nếu có ai hỏi nhóm đi đâu, và khi qua vùng
Tây Ban Nha kiểm soát th́ những anh em nói tiếng Tây Ban Nha sẽ dẫn
đường. Nhờ vậy nên họ đến Venezia b́nh an vô sự.
Chúng tôi đă gặp lại nhau tại Venezia vào đầu năm 1537 và
chia nhau giúp việc tại các nhà thương trong khi chờ đợi tàu đi Đất
Thánh. Hai tháng sau cha gửi các anh em lên đường đi Roma xin phép lành
của Đức Thánh Cha để đi Giêrusalem. Sau khi trở về, ai chưa làm linh mục
th́ được chịu chức thánh. Lễ thánh Gioan Tẩy Giả, ngày 24 tháng 7, cha
được chịu chức linh mục cùng với Javier, Rodrigues, Bobadilla và Codure
(Salmerón chưa đủ tuổi nên chịu chức sau). Mùa thu năm đó các bạn lần lượt
dâng lễ mở tay. C̣n cha th́ cha đợi.”