|
NĂM CỘT TRỤ CỦA ĐỜI
SỐNG THIÊNG LIÊNG 1

Julian Elizaldé, SJ
Cột
trụ bốn:
Mở
trái tim cho Thần Khí
Được quyền năng Thần Khí
thúc đẩy, Đức Giê-su trở về miền Ga-li-lê, và tiếng tăm Người đồn ra khắp
vùng lân cận. Người giảng dạy trong các hội đường, và được mọi người tôn
vinh. Rồi Đức Giê-su đến Na-da-rét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào
hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sa-bát, và đứng lên đọc Sách
Thánh. Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ I-sai-a. Người mở ra, gặp đoạn
chép rằng: Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong
tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công
bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng
mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.
Đức Giê-su cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi
xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói
với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe". Mọi
người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng
Người. Người nói với họ: "Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ:
Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã
làm tại Ca-phác-na-um, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!"
Người nói tiếp: "Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp
nhận tại quê hương mình. "Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: vào thời
ông Ê-li-a, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém
dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước Ít-ra-en; thế mà ông không được sai
đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Xa-rép-ta
miền Xi-đôn. Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Ê-li-sa, thiếu gì người phong hủi
ở trong nước Ít-ra-en, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông
Na-a-man, người xứ Xy-ri thôi". Nghe vậy, mọi người trong hội đường
đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành -thành này được xây trên
núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. Nhưng Người
băng qua giữa họ mà đi. (Lc 4,15-30)
Thần Khí là cách Chúa Cha và
Chúa Con hiện diện cho nhau; là tình yêu nối kết hai Cha Con nên một.
Thiên Chúa ban cho chúng ta một ân huệ lạ lùng: Thần Khí của Ngài. Bởi vì
Thần Khí là tình yêu nối kết hai Cha Con nên một, cho nên ảnh hưởng chính
của Thần khí là nối kết chúng ta với Chúa Cha và với Đức Kitô trong tình
yêu, làm cho chúng ta trở thành người con của Chúa Cha và đồng thừa kế với
Đức Kitô.
Ngoài sự sống mới làm con
Thiên Chúa, Ngài còn muốn biến đổi chúng ta tận gốc và ban cho chúng ta
rất nhiều hồng ân để xây dựng Hội Thánh hiệp nhất. Trong Cựu Ước, dấu chỉ
Thần Khí hiện diện trong một người là xuất thân và những hành động phi
thường, nhưng trong Tân Ước là những biến đổi nhẹ nhàng của trái tim, nhất
là qua tình yêu. Chúng ta liệt kê ba loại hồng ân đặc biệt:
1.Hưởng bình an vượt quá sự
hiểu biết,
2.Linh hứng và chỉ dẫn để
nối kết người với người và xây dựng Hội Thánh
3.Biến đổi chúng ta nên
'đồng hình đồng dạng' với Đức Kitô
• • •
1.- Hưởng
bình an vượt quá sự hiểu biết
Bình an bởi Thần Khí không
chỉ là một cảm giác thoải mái, mạnh khỏe, đỡ lo âu. Được bình an do Thần
Khí, chúng ta cảm thấy đang 'như ở nhà' trong cuộc sống, và cuộc sống là
nhà ở của Thiên Chúa. Được biết Thiên Chúa là cha, chúng ta cảm thấy an
tâm. Đây là một dấu chỉ đáng chú ý của bình an mà Thần Khí ban cho: đó là
cảm giác mình thuộc về thế giới này, cuộc sống hiện tại là chỗ ở rất thích
hợp với mình, kèm theo lòng hăng hái, nhẹ nhàng, bất chấp những u tối, xấu
xa chung quanh. Tức là trong môi trường này chúng ta nhận thấy đang hiệp
nhất với Thiên Chúa và có một nhiệm vụ theo kế hoạch của Ngài.
Nhờ bình an này, chúng ta
được Thần Khí an ủi và ban hồng ân: a) xóa dịu những đau khổ, b) củng cố
niềm tin ngay trong khi gặp thử thách, c) ban tâm hồn sáng suốt và khôn
ngoan để quyết định và lựa chọn.
a) Thần khí xóa dịu những
đau khổ. Đây là kinh nghiệm quý báu chúng ta đã từng có: tuy đang
đương đầu với nhiều vấn đề, nhờ ơn Thần Khí chúng ta vẫn cảm thấy bình
tĩnh và tin chắc rằng mọi sự sẽ tốt đẹp.
Đôi khi chúng ta chưa nhận
ra đó là hồng ân của Thần Khí và tự nhủ: làm sao tôi có thể cảm thấy bình
tĩnh như vậy ngay lúc một người thân mới qua đời, một người bạn đang lâm
nguy? Hay là tôi không thương họ đủ? Và chúng ta đâm ra bị mặc cảm lỗi lầm
nào đó. Sau nhiều kinh nghiệm tương tự, chúng ta nhận ra rằng:
�ơn
bình an ngay giữa nỗi đau khổ�
là hồng ân của Thần Khí đang hiện diện và đồng hành với tôi, và đồng hành
với tất cả anh em lúc trải qua các cơn đau buồn. Ngài an ủi và hứa với
chúng ta rằng, một ngày gần đây, những nỗi đau khổ đó, nhờ quyền năng và
tình yêu của Ngài, sẽ mang lại hoa trái tốt đẹp.
b) Thần Khí củng cố niềm
tin ngay lúc chúng ta bị bắt bớ và hành hạ. Có bao giờ chúng ta cảm
thấy lạc lõng và bị đe dọa vì là kitô hữu, hay là bị hiểu lầm và xét đoán,
phải giải quyết một hoàn cảnh phúc tạp chăng? Thường thường lúc đó, cảm
giác tự nhiên là lo sợ và bối rối vì những nguy cơ và trực trặc có thể xảy
ra với mình và cho người khác. Đêm đó chúng ta lại mất ngủ!
Đức Kitô nói: "Khi người
ta điệu anh em đi nộp, thì anh em đừng lo trước phải nói gì, nhưng trong
giờ đó, Thiên Chúa cho anh em biết điều gì, thì hãy nói điều ấy: thật vậy,
không phải chính anh em nói, mà là Thánh Thần nói" (Mc 13,11).
Thần Khí ban bình an khi
chúng ta phó thác mình cho Ngài và để Ngài dìu dắt và gợi ý phải làm gì,
nói gì. Đôi khi hai giờ sáng, chúng ta tỉnh lại, thấy rõ ràng phải nói gì,
làm gì trong hoàn cảnh khó xử đó. Nhiều khi những lời đó thuyết phục người
ta và chiếu một ánh sáng mới, đánh động các tâm hồn và củng cố sự đồng tâm
nhất trí giữa anh em.
Có thể chính chúng ta không
hiểu được tại sao trong một nghịch cảnh vượt quá khả năng của mình chúng
ta có thể giữ lòng bình tĩnh, và đôi khi giúp người khác một tay. Đây là
bình an của Thần Khí, là Đấng an ủi dịu dàng và che chở mà Đức Kitô hứa
cho chúng ta. Thật là một diễm phúc khi Ngài dùng mình như khí cụ tình yêu
và bình an. "Phúc
thay ai bị bách hại vì sống công chính"
(Mt 5, 10).
c) Thần Khí ban sự sáng
suốt và khôn ngoan lúc chúng ta phải quyết định và lựa chọn. Muốn có
những suy xét sáng suốt và khôn ngoan, chúng ta cần bình an nội tâm. Trong
nhiều hoàn cảnh, sức thông minh không đủ; cần một trực giác về những gì
chúng ta nên nói, nên làm. Một trực giác là hoa quả của nhiều kinh nghiệm
chúng ta đã gặp phải trong quá khứ. Nhưng, thiếu bình an, trực giác của
chúng ta có thể 'lệch lạc' và mở đường cho những quyết định chẳng có ích
lợi cho ai, có thể gây thiệt hại cho nhiều người.
Mỗi khi bị đụng chạm tự ái,
chẳng hạn, phản ứng tự nhiên là gợi lại tất cả những lần chúng ta đã bị
đụng chạm như vậy, lấy làm buồn vì những lời và hành động bất công, thiếu
bác ái của người khác đối với mình. Chúng ta đâm ra chán nản, u buồn, muốn
phá phách hoặc rút lui không cộng tác với họ nữa.
Lúc đó Thần Khí vẫn gõ cửa
trái tim để xoa dịu vết thương, khuyên bảo và chỉ cách đương đầu với
nghịch cảnh và tránh những nguy hại mà chính chúng ta có thể gây nên. Chưa
chắc chúng ta nghe Ngài! Mỗi lần không nghe Thần Khí và đã để miệng phát
ra những lời nóng nảy thể hiện từ một tâm hồn đau buồn và tủi thân, chúng
ta đã chứng kiến hậu quả đáng tiếc xảy ra.
• • •
2.- Linh
hứng và chỉ dẵn để nối kết người với người và xây dựng Hội Thánh
Thần Khí không chỉ ban cho
chúng ta bình an để bảo vệ trái tim mà còn soi sáng đầu óc để biết suy
nghĩ và quyết định những gì có ích lợi cho Nước Chúa. Trong những hoạt
động của Ngài, chúng ta sẽ để ý đến ba phạm vi đặc biệt: a) Khuyên bảo và
dẫn dắt người khác, b) suy tưởng đúng theo các tín điều của Hội Thánh, và
c) khôn ngoan quyết định và lựa chọn.
a) Khuyên bảo và dẫn dắt
người khác. Có nhiều hình thức, nhiều cách trao đổi và dẫn dắt người
khác. Tùy hoàn cảnh, có lẽ chúng ta gặp riêng một người, trao đổi kinh
nghiệm hoặc trình bày một đề tài cho một tập thể. Chúng ta có thể là cha
mẹ, là thầy cô, là bạn bè hay là anh em với nhau. Chúng ta đang gặp một
hoàn cảnh khó xử hay là cộng tác trong một chương trình học hỏi và huấn
luyện.
Sự hiện diện của Thần Khí
thường xảy đến một cách bất ngờ. Đã thành thật nghe và tìm hiểu nhu cầu
hay ước ao của họ, sau khi học hỏi đề tài, một ý tưởng, một nhận xét chính
đến đầu óc mình. Ý tưởng và nhận xét đó xem ra hữu ích nhất. Từ từ có
nhiều ý tưởng khác bổ túc điểm đó với những trường hợp, kinh nghiệm và
hình ảnh để đào sâu, tìm hiểu và rút kết quả hữu ích. Những lời khuyên bảo
và hướng dẫn xuất hiện một cách rõ ràng và đương nhiên. Có phải là do Thần
Khí soi sáng và gợi ý chăng?
Xem ra đó chỉ là lối suy
luận tự nhiên và là kết quả của nhiều kinh nghiệm khác. Nhưng, hồi tâm lại
về một cuộc gặp gỡ và trao đổi thật hữu ích, đọc lại bài viết, chúng ta
nhận thấy rằng kết quả đó vượt quá khả năng và khôn ngoan của mình.
Một điểm đáng chú ý nữa là
những giây phút sáng suốt đó chỉ xảy ra khi chúng ta tận tâm muốn giúp đỡ
một người, một hội đoàn. Thường thường Thần Khí hoạt động khi chúng ta
thành thật muốn phục vụ và dẫn dắt anh em theo Thánh Ý Chúa. Về phần chúng
ta, chỉ cần tin tưởng, chiều ý theo và diễn tả một cách rõ ràng và dễ hiểu
những lời Thần Khí gợi lên trong đầu óc chúng ta. Các lời nói đến môi
miệng một cách nhẹ nhàng và dễ dàng. Có thể là những lời rất bình thường
hay cao đẹp, đơn sơ và ngay thẳng hay đầy hình ảnh tưởng tượng, nhưng nếu
do Thần Khí, những lời đó có sức lực đánh động tâm hồn và thúc đẩy họ theo
nẻo đường của tình yêu, hiệp nhất và sự sống.
b) Suy tưởng đúng theo
các tín điều của Hội Thánh
"Thực
vậy, nhờ cảm thức về đức tin được Thánh Thần chân lý khơi dậy và duy
trì, dưới sự hướng dẫn và giáo huấn thần linh của Giáo Hội mà họ trung
thành tuân theo, Dân Thiên Chúa nhận lãnh không còn là lời nói của loài
người nhưng thực sự là lời của Thiên Chúa (1 Th 2,13); họ gắn bó hoàn
toàn "với
đức tin chỉ một lần được ban bố cho các thánh"
(Gda 3), họ tiến sâu hơn trong đức tin nhờ phán đoán đứng đắn và sống
đức tin cách hoàn hảo hơn"
(Lumen Gentium n.12)
Thần Khí nâng đỡ
"cảm
thức" về đức tin và soi sáng chúng ta hiểu biết những chân lý có sức tác
động, soi sáng và biến đổi cuộc sống. Có khi đọc một tác phẩm, nghe một
bài thuyết trình, chúng ta có một linh cảm về nội dung sách đó, bài diễn
thuyết đó không đúng theo chân lý. Trong khi đó, đọc tác phẩm một vị thánh
(như Tô-ma, như I-nhã chẳng hạn), tuy khó hiểu nhưng chúng ta cảm thấy
thực sự gần gũi Chúa, đang được dẫn dắt vào mầu nhiệm của Thiên Chúa và
lấy làm thích thú, thoải mái, muốn hiểu thêm chân lý của Chúa và tiến gần.
Chính Ngài là chân lý.
Chúng ta tin rằng Thần Khí
sự thật lúc đó đang soi sáng, nâng đỡ và đổ tràn đầy lòng chúng ta ánh
sáng và niềm vui. Ngài sẽ không để chúng ta bị lừa gạt bởi những sai lầm
về các tín điều, bao lâu chúng ta mở lòng cho ánh sáng, bình an và niềm
vui thánh thiện của Ngài.
c) Khôn ngoan quyết định
và lựa chọn, nhất là những quyết định có ảnh hưởng lớn trong cuộc
sống. Ai ai cũng mong rằng những quyết định của mình mang ích lợi cho bản
thân hay cho người khác. Tuy nhiên, chúng ta đã từng có kinh nghiệm đi đến
một lựa chọn, có lẽ theo lời khuyên bảo của gia đình, mà ngay lập tức
chúng ta cảm thấy không ổn, làm cho chúng ta tự hỏi có phải đó là một
quyết định đúng và thực sự khôn ngoan chăng? Có phải Thần Khí đang đánh
thức, muốn dìu dắt mình đó chăng! Đương nhiên, tác động của Thần Khí khác
hẳn những bối rối do mặc cảm thiếu tự tin, lo xa và hay đâm ra suy tư. Làm
sao biết được những tác động bởi Thấn Khí?
Bằng cách vừa theo ánh sáng
suy luận khôn ngoan vừa để tâm hồn lắng nghe các tác động nội tâm. Cả hai
đều cần thiết: coi thường ánh sáng của suy luận, thì chúng ta có thể bị
dừng chân tại chỗ bởi cảm xúc tiêu cực. Quên tác động của Thần Khí, thì
chúng ta có thể đi đến những lựa chọn sai vì ngụy biện và lý luận một
chiều. Thần Khí không muốn chúng ta coi thường ánh sáng của suy luận.
Chúng ta không nên quên rằng óc suy nghĩ và khôn ngoan cũng bắt nguồn từ
Thần Khí.
Thần Khí tác động và thúc
đẩy chúng ta hoạt động bằng những cảm xúc bình an, hăng hái và nhiệt tình.
Tự nhiên một cơ hội hiện ra trước mắt mình, một cửa mở ra thu hút mình một
cách êm ái, đáng tin tưởng và đầy hứa hẹn. Đi vài bước qua cửa đó, những
cửa khác lại tự nhiên mở ra tiếp và cứ như vậy theo từng bước. Không phải
kế hoạch nào mà diễn tiến như vậy cũng là của Thần Khí. Đặc tính của những
kế hoạch do Thần Khí soi giục là lúc ban đầu chưa chắc chúng ta biết rõ
kết quả cuối cùng, vậy mà sau vài năm mầm nhân sẽ triển nở và sinh hoa
trái dồi dào và rất hữu ích đối với nhiều người.
Thần Khí muốn dìu dắt chúng
ta theo những kế hoạch lâu dài của bậc sống và ơn gọi mình, bởi vì Thánh Ý
Chúa Cha là chúng ta 'sinh hoa trái dồi dào, và hoa trái đó tồn tại' (Ga
15,16). Thường thường Thần Khí dẫn chúng ta từng bước:
- một cơ hội mới để
cùng nhau đóng góp cho Nước Chúa mở ra trước mắt chúng ta,
- mơ ước đó 'lây
sang' một số người khác và ngày càng nhiều người 'mơ ước cùng nhau',
- bắt tay thực hiện
ước mơ, mọi người chia sẻ lòng hăng hái và quảng đại, bất chấp các khó
khăn,
- gặp ngăn trở, thử
thách, mọi người cùng nhau đương đầu và cố gắng vượt qua.
• • •
3.- Biến
đổi chúng ta nên 'đồng hình đồng dạng' với Đức Kitô
Thần Khí Chúa không chỉ an
ủi và dìu dắt mà còn muốn biến đổi chúng ta nữa. Là tình yêu chân thật và
vô vị lợi, Thần Khí nối kết chúng ta với Thiên Chúa và với anh em và khi
nối kết lại biến đổi chúng ta tận gốc. Nhờ Thần Khí, chúng ta ngày càng
nên 'đồng hình đồng dạng' với Đức Kitô. Theo Thánh Ý Chúa Cha, Đức Kitô
sai Thần Khí đến với chúng ta với hai mục đích: 1) Uốn nắn các tập thể
(gia đình, xứ đạo, hội dòng, quốc gia?)
theo kế hoạch Ngài dành cho mỗi tập thể, 2) Uốn nắn, triển nở và biến đổi
từng cá nhân một theo kế hoạch Ngài dành cho mỗi người. Cả hai loại kế
hoạch này tùy thuộc và ảnh hưởng lẫn nhau: các tập thể được đổi mới nhờ
anh em nghe và vâng theo tác động của Thần Khí. Các anh em được Thần Khí
uốn nắn và rèn luyện qua kinh nghiệm vui buồn khi phục vụ tập thể, đặc
biệt qua thử thách và đau khổ. Những đau khổ và thử thách không phải do
Thần Khí mà có. Những đau khổ chúng ta phải chịu đựng có nhiều nguyên do:
tự nhiên hay do con người gây ra. Khi đau khổ đến, chúng ta có thể:
1. tự cô lập
hóa trong thế giới khép kín, cay đắng và tủi thân, hoặc cởi mở tìm ánh
sáng và sức lực của Thần Khí,
2. ý thức về
ảnh hưởng bất lợi của những phản ứng và suy luận tiêu cực sẵn có từ bao
nhiêu năm cho mình hay cho người khác, mà chúng ta cần xét lại,
3. thông cảm
với những đau khổ, nhu cầu và tâm tư của rất nhiều người đang đau khổ hơn
mình,
4. khiêm
nhường phó thác đời sống mình trong bàn tay Thiên Chúa.
Nhờ sức tình yêu của Thần
Khí, những ảnh hưởng tiêu cực có thể biến thành tích cực, thay vì đóng cửa
tâm hồn và tự cô lập; nhờ nỗi đau khổ, chúng ta có thể đền gần anh em, cảm
thông và chia sẻ với họ những tâm tình mới. Nếu cầu nguyện và mở lòng cho
Thần Khí, có lẽ lần đầu tiên chúng ta sẽ thực sự hiểu các Mối Phúc Thật:
hiểu thế nào là nghèo tinh thần (khiêm nhường), tại sao kẻ nghèo có phúc.
Bây giờ chúng ta mới hiểu Đức Giê-su muốn nói gì qua từng mối Phúc. Kết
quả sau cùng, khi nhận ra vẻ đẹp của Đức Kitô rõ hơn, khi cảm thấy mến yêu
Chúa tha thiết hơn, là lúc chúng ta muốn nhận lãnh tình yêu vô vị lợi và
vô điều kiện của Thần Khí Chúa. Bấy giờ, chúng ta mới hiểu thế nào là
'đồng hình đồng dạng' với Đức Kitô và nhờ 'sức mạnh phục sinh?
được sống lại từ trong cõi chết'. Một sự biến đổi lạ lùng Thần Khí tình
yêu thực hiện nơi chúng ta suốt cuộc sống dương thế.
Thưa anh em, những gì xưa
kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Ki-tô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn
nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là
được biết Đức Ki-tô Giê-su, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và
tôi coi tất cả như rác, để được Đức Ki-tô và được kết hợp với Người.
Được như vậy, không phải nhờ sự công chính của tôi, sự công chính do
luật Mô-sê đem lại, nhưng nhờ sự công chính do lòng tin vào Đức Ki-tô,
tức là sự công chính do Thiên Chúa ban, dựa trên lòng tin.
Tôi chỉ muốn biết Đức
Ki-tô, và sức mạnh phục sinh của Người, cùng được thông phần những đau
khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của
Người, với hy vọng cũng được sống lại từ trong cõi chết. Nói thế, không
phải là tôi đã đạt đích, hay đã nên hoàn thiện đâu; nhưng tôi đang cố
gắng chạy tới, mong chiếm đoạt, bởi lẽ chính Đức Ki-tô Giê-su đã chiếm
đoạt tôi. (Pl 3, 7-12)
"Tôi
sống, nhưng không còn phải là tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi"
(Gl 2, 19)
Kết luận
Thần Khí hoạt động khắp nơi,
trong mọi người và trong mọi tập thể, dưới nhiều hình thức khác nhau.
Chúng ta cộng tác với Ngài nhất là khi: 1) Bước qua những cửa và theo
những con đường Ngài mở ra cho chúng ta và 2) cầu xin:
"Xin
Chúa sai Thánh Thần xuống: mọi vật sẽ được tái tạo, vũ trụ sẽ được đổi mới".
Tuy nhiên, chúng ta luôn luôn cần chú ý và cảnh giác kẻo bắt đầu bước theo
đường lối của Chúa, nhưng từ từ đổi hướng và bước tiếp theo ích lợi và
danh vọng riêng. Mọi sinh hoạt và kế hoạch làm vinh danh cho Chúa, cũng có
thể làm vinh danh cho chúng ta nếu cái
"tôi"
thay thế cho Chúa làm tâm điểm và cùng đích.
Các Mối Phúc Thật sẽ giúp
chúng ta xác định lại đang bước theo tác động của Thần Khí, theo đường lối
của Chúa Cha. Một tâm hồn 'trong sạch' tìm kiếm Nước Chúa trên hết, một
tâm hồn 'nghèo' và 'khiêm nhường' đặt Thiên Chúa là tâm điểm, phục vụ anh
em là cùng đích sẽ luôn luôn lựa chọn những cửa và đường hướng đúng theo
Thần Khí. Thần Khí sẽ thôi thúc chúng ta ước muốn làm vinh danh cho Chúa
và được biến đổi nên giống Đức Kitô.
Câu hỏi
gợi ý cầu nguyện và trao đổi
1.- Tôi có những kinh nghiệm
nào về các tác động của Thần Khí:
- ban bình an vượt quá sự hiểu biết,
- chỉ dẫn và soi sáng,
- biến đổi tận gốc?
2.- Hồng ân nào của Thần Khí tôi quý trọng nhất?
3.- Những gì đã giúp tôi hiểu biết và mở lòng cho Thần Khí?
• • •
Phân biệt
Thần Loại - Mở trái tim cho Thần Khí (Phần tiếp theo)
"Thần",
khí (spirit, ruah), là một sức lực nội tâm muốn thúc đẩy con người
theo hướng nào đó, như luồng gió muốn dìu dắt tàu buồm. Các 'thần' khác
với đam mê và các mối tội đầu ở chỗ: 'thần' thì ở ngoài mà quyến rũ, trong
khi các đam mê và các tội đầu hành hạ từ bên trong1 . Bao lâu
chúng ta không tự do ưng theo, thì các đam mê chỉ có thể hành hạ tâm lý,
thể xác, con người xác thịt, mà không vào tận đáy lòng được. Cánh cửa tận
đáy lòng mình có chìa khoá và chỉ một mình mới sử dụng được. Nếu đam mê là
những năng lực có ở trong mình mà còn không vào tận đáy lòng mình được,
phương chi các thần, là những động lực thổi ở ngoài mà thôi. Khi chúng ta
đóng cửa lòng mình, các thần lành hay dữ chỉ gõ cửa xin vào hay quyến rũ
và đe doạ mình thôi. Nếu khôn ngoan, trước khi mở buồm lòng cho một thần
khí nào thúc đẩy, chúng ta nên chú ý và phân biệt xem thần này lành hay
dữ. 'Thần lành' thì dễ nhận ra là lành vì bản chất nguồn gốc ngay thẳng và
thành thật của nó là Thần Khí Thiên Chúa. Vấn đề là do thần dữ, vì bản
chất và nguồn gốc giả dối và ma giáo của nó là kẻ thù của chúng ta - và
của Thiên Chúa.
"Thần lành" trong cuộc sống nội tâm là tất cả những tác động muốn
thúc đẩy chúng ta theo đường lối của Chúa. Tất cả các 'thần lành' bắt
nguồn từ Thần Khí Chúa. Thần Khí ngự trong lòng để kết hợp mật thiết chúng
ta với Chúa Cha, với Đúc Giêsu và với anh em hơn. Ngài hay sử dụng muôn
vàn sứ giả: người hiền lành, sách vở, phim ảnh, thiên nhiên và các biến cố
cuộc sống để tác động chúng ta. Đây là những 'trung gian', là những thiên
thần (angels), là những 'hình thánh' (icons), có thể soi sáng, hướng dẫn
và khuyến khích chúng ta trên các đường nẻo của Chúa. Thiên Chúa là Đấng
vô hình, thì càng thiêng liêng và đơn giản các tác động càng gần Thần Khí.
Tác đông vô hình và thiêng liêng nhất là đức tin. Vì lý do đó và trên tất
cả, chúng ta nên mong ước và tìm sự hiện diện của Thiên Chúa qua đức tin.
"Thần
dữ" bao gồm tất cả những tác động và quyến rũ muốn kéo chúng ta xa
Thiên Chúa và các đường nẻo của Ngài. Thủ lãnh là Luxiphe 'kẻ thù của nhân
loại'. Đã phản loạn vì bất phục tùng Thiên Chúa, nó tự kiêu, tham vọng,
giả dối và tàn nhẫn. Vốn dĩ là thông minh, nó lại nhiều kinh nghiệm và lắm
'cộng tác viên' trong thế giới chung quanh và ngay trong xác thịt chúng ta
nên, chúng ta không thể coi thường nó. Tuy nhiên, nó chẳng có quyền trên
chúng ta bao lâu chúng ta không mở lòng cho nó. Là thần ma giáo và giả
dối, điều rất quan trọng là chúng ta nhận ra nó càng sớm càng hay. Theo
I-nhã có hai trình độ và hai bộ nguyên tắc phân biệt thần loại:
-
trình độ một (Tuần 1), là khi chúng ta chưa dứt khoát với những ước
muốn bất chính của mình. Đây có thể là tình trạng chưa quả quyết theo
Chúa, hay là đã theo Chúa nhưng, trong một phạm vi lệch lạc nào đó, chưa
dám dứt khoát (đánh bài, uống rượu, mua cổ phần, trả thù, coi TV...).
Trong trường hợp này
phân biệt các thần không khó, nhưng sức lôi cuốn của thần dữ lại rất
mạnh.
-
trình độ hai (Tuần 2), là khi chúng ta dứt khoát với ước muốn bất
chính và quả quyết phục vụ Chúa. Trong trường hợp này 'kẻ thù của nhân
loại' sẽ giả dạng thần lành đi vào theo chiều hướng tốt đẹp để rồi kéo
ta ra theo đường của nó. Trên các nẻo đường theo Chúa và phục vụ tha
nhân, phân biệt thần loại tinh vi hơn và không dễ. Đôi khi, trước khi
kết luận đang bị thần dữ ảnh hưởng, phải đợi chờ xem những dấu chỉ của
nó.
Quy
tắc 1 và 2: Hai quy tắc này mời chúng ta chú ý đến đường hướng của
cuộc sống: tôi đang tiến bộ hay thụt lùi trên đường nên đồng hình đồng
dạng với Đức Kitô. Được Chúa Cha mời gọi làm con của Ngài, Thần Khí của
Đức Giêsu muốn nhập thể trong tôi. Khi tôi để một đam mê bất chính làm chủ
trái tim tôi, nào là đi hoang (mở lòng cho tứ đổ tường là sắc dục, rượu
chè, bài bạc và thuốc sái), hay đầu hàng trong một phạm vi đặc biệc thôi,
kết quả là các đam mê sẽ làm chủ trái tim ngày càng mạnh mẽ và gây thiệt
hại cho tôi và nếp sống chung quanh. Trong tình trạng này, Thần dữ cám dỗ
rõ ràng ('thôi thúc làm bậy'), nhưng lại hấp dẫn bày ra những thú vui luôn
luôn mới lạ. Nó còn chích vào lương tâm một loại thuốc tê làm cho tội nhân
cố chấp, mặc kệ thiệt hại, nước mắt của người thân và mọi hậu quả đáng
tiếc khác do hành động của mình.
Lúc đó
ảnh hưởng của thần lành ngược lại: làm lương tâm cắn rứt, bối rối, khó
chịu và hối hận. Thần lành chỉ muốn tội nhân ăn năn hoán cải. Điều lạ lùng
là nếu tội nhân phản ứng rõ ràng và chỗi dậy, cũng chỉ trong tư tưởng
thôi, là hai thần đổi chiến thuật ngay: thần lành khuyến khích, an ủi, hứa
niềm vui và nhiều hoa quả tích cực cho mình và cho thân nhân, kể cả sự hài
lòng của Chúa; Còn thần dữ thì ngược lại: sẽ gợi ý những nghi ngờ về khả
năng mình và về ơn trên, những lo sợ vì đòi hỏi quá đáng của cuộc sống mới
hoặc những ngăn trở khác, thật hay giả, từ chính mình hay từ kẻ khác.
Quy
tắc 3 và 4 nói về cảm tưởng an ủi hay sầu khổ trong liên hệ với Thiên
Chúa và những gì thuộc về Ngài. Kinh nghiệm 'an ủi thiêng liêng' vượt xa
cảm xúc vui vẻ, mạnh khoẻ hay lòng hăng hái. Là một hồng ân đặc biệt của
Thần Khí, là dấu chỉ Thiên Chúa hài lòng và xác định đường hướng mình đang
theo. Kinh nghiệm an ủi thiêng liêng có thể kèm theo nhiều cảm xúc (nước
mắt chảy ra vì lòng hối hận hay vì tình thương của Chúa). Nhưng, kinh
nghiệm au ủi cũng có thể ngầm và nhẹ nhàng như bình an nội tâm, gia tăng
lòng tin, cậy, mến làm cho 'linh hồn nghỉ ngơi và an bình trong Đấng Tạo
Hóa và Chúa mình'.
Còn
'sầu khổ thiêng liêng', là kinh nghiệm nội tâm khi Thần Khí 'im', không
soi sáng, không tác động tâm hồn, để chúng ta một mình (một phần nào, bởi
vì Ngài luôn luôn hiện diện và gìn giữ chúng ta). Lúc sầu khổ, đọc Kinh
Thánh không thấy ý nghĩa, lãnh các Bí Tích chẳng có cảm xúc nào cả, Thiên
Chúa có vẻ vắng mặt, tính lười biếng cùng các cám dỗ trần tục lại nổi lên.
Sầu khổ nặng nệ là khi mình cảm thấy xa cách và nghi ngờ tình yêu Chúa. Cả
hai kinh nghiệm, an ủi hay sầu khổ, đều cần thiết. Chúng ta cần được Chúa
soi sáng và củng cố đều đều trên đường vâng phục Ngài. Những năm đầu lúc
mới theo Chúa, chúng ta có thể cần được an ủi và soi sáng, có nhiều cảm
xúc và nước mắt hơn. Khi lớn lên về niềm tin yêu, Thần khí có thể an ủi
chúng ta qua bình an, niềm tin, cậy và khả năng hiện diện trước mặt Chúa
trong Đức Tin. Thường thường kinh nghiệm sầu khổ do Thần Khí "im"
không kéo dài lâu.
Quy
tắc 5: "Trong
thời gian sầu khổ, đừng bao giờ thay đổi".
Lý do là vì đặc tính của tình trạng 'sầu khổ' là sự im lặng của Thần Khí.
Ngài im lặng, thì cảm xúc mệt mỏi, nản lòng và sầu khổ nổi lên một cách dễ
dàng. Đây không phải lúc đổi hướng đi của cuộc sống hoặc quyết định về một
chương trình hữu ích. Vì cũng như trong khi được an ủi, phần nhiều là thần
lành hướng dẫn khuyên nhủ ta thế nào, thì trong cơn sầu khổ, thần dữ cũng
(làm) như vậy, mà theo lời khuyên của nó, ta chẳng thể gặp được con đường
đưa tới đích. Hãy nghĩ rằng chẳng bao lâu nữa sẽ được an ủi, nếu hết sức
chiến đấu với cơn sầu khổ ấy.
Quy
tắc 9: Lý do tại sao bị sầu khổ. Ba lý do chính tại sao chúng ta bị
sầu khổ đều đều:
a) vì lỗi của chính mình đã không tỉnh thức và quảng đại đáp trả lại hồng
ân Chúa. Hoặc thiếu lòng ngay thẳng và thành thật với Chúa, tôi dâng lễ
vật và lời nguyện với môi miệng thôi, trong khi tâm hồn để thần tượng nào
đó làm chủ rồi (xẻm quy tắc 1).
b) Để thanh tẩy lòng mến yêu tôi dành cho Thiên Chúa; tuy vốn dĩ loài
người nghèo nàn, trong khi Ngài là chủ trời đất, tôi đi tìm Ngài với lòng
vô vị lợi chăng? Tức là, tôi quý trọng chính Ngài và sẵn sàng phụng sự
Ngài tới đâu khi không được hưởng những an ủi thiêng liêng của Ngài?
c) Đây cũng là cơ hội cảm nhận sự nghèo nàn của chúng ta, không thể tự
mình gặp gỡ Thiên Chúa. Mọi an ủi thiêng liêng là hồng ân Chúa ban.
Quy
tắc 12: "Kẻ
thù xử sự như đàn bà".
I-nhã mời chúng ta can đảm đối diện những nỗi sợ hãi (thiệt hay tưởng
tượng) với lòng can đảm và biết ơn Chúa. Trước mặt Chúa chúng ta đối diện
những thử thách đó (hoặc còn lớn hơn nữa), và xin Ngài ban sức lực và tình
yêu để biết chịu đựng và vâng phục Ngài.
Quy
tắc 13: "Kẻ
thù cũng còn xử sự như kẻ si tình lẳng lơ". Quy tắc này nói về lòng 'khép
kín' hay 'mở lòng kể lại cho linh hướng' khi mình bị cám dỗ. Theo kinh
nghiệm, lắm khi chúng ta không vượt nổi một tâm tình u buồn, nặng nề, bao
lâu chưa mở hết lòng cho vị linh hướng nghe. Trước khi thú thật, chúng ta
e ngại hậu quả quá nguy hại cho mình. Nhưng, thú thật với đúng người nghe
lại luôn luôn có ích lợi.
"Khi
thành thật với một người khác, chúng ta thành thật với chính mình và với
Thiên Chúa"
(Bill Wilson).
Quy
tắc 14: "Kẻ thù lại còn xử sự như một tướng quân". 'Yếu điểm của tôi ở
đâu?' Tôi đặc biệt nhạy cảm và bị cám dỗ dễ dàng hơn trong phạm vi nào?
Tôi hay phạm tội giống nhau, thì trong phạm vi đó tôi có một nhu cầu, một
vết thương, một đam mê đặc biệt. I-nhã khuyên tôi nhớ đề phòng, tránh cơ
hội và cầu nguyên nhiều hơn về yếu điểm đó, kẻo sa cám dỗ. Tránh cám dỗ
cũng là một cách tỏ lòng vâng phục Chúa Cha.
• • •
-------------
1.
“Bởi đó tôi khám phá ra luật này: khi tôi muốn làm sự thiện
thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay. Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì
luật của Thiên Chúa; nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật
khác: luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam hãm tôi trong
luật của tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể tôi. Tôi thật là một
người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn
Thiên Chúa, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta! Như vậy, nếu theo lý trí,
thì tôi làm nô lệ luật của Thiên Chúa; nhưng theo xác thịt, thì tôi làm nô
lệ luật của tội.
(Rm
7,21-25)
|
|