TÂM LINH LÀ GÌ?
Trong chương
1, cuốn The Holy Longing, cha Ronald Rolheiser định nghiă
“spirituality” như là một sức nội tâm làm động lực thúc đẩy cuộc
sống của chúng ta.
Cuộc đời chúng ta không bao giờ yên ổn nhưng luôn “bận rộn” với
những ao ước, xoay vần với những nhu cầu, những ham muốn hoặc
những bực dọc, bất măn. Chúng ta bị những khát vọng điều khiển
đến nỗi không thể nào t́m được một sự b́nh an sâu xa và vững
bền. Ngài viết: “We are overcharged with desire that it is hard
to come to simple rest. Desire is always stronger than
satisfaction.”
Cái ḷng ước muốn khao khát đó ở ngay trong xương tủy, ở đáy sâu
trong tâm hồn của ḿnh. Chúng ta không phải là những con người
sống trong b́nh an và chỉ thỉnh thoảng gặp vài biến động. Ngược
lại, chúng ta là những người sống với nhiều biến động và chỉ
thỉnh thoảng mới có được b́nh an. Thế giới này, kể cả nghệ
thuật, văn hóa, chính trị, kinh tế và ngay cả tôn giáo đều bị
ảnh hưởng bởi mănh lực hoặc của đồng tiền, hoặc của tham lam,
dục vọng, hoặc của quyền lực …
Chúng ta thể hiện ra sao cái ước muốn, cái khát vọng trong ḷng
chính là lúc ta sống cái tâm linh của ḿnh. Cha Rolheiser viết:
“Spirituality is, ultimately, about what we do with that desire.
What we do with our longings, both in terms of handling the pain
and the hope they bring us, that is our spirituality.”
Có một sự hiểu lầm rất lớn tưởng rằng người sống tâm linh là
những người ngoan đạo, sốt sắng, thánh thiện, xa lánh những ǵ
thuộc về trần tục. Sự thật là dù muốn hay không chúng ta ai cũng
đang sống với tâm linh. Cha viết:
“Rarely is spirituality understood as referring to something
vital and nonnegotiable lying at the heart of our lives. This is
a tragic misunderstanding. Spirituality is not something on the
fringes, an option for those with a particular bent. None of us
has a choice. Everyone has to have a spirituality and everyone
does have one, either a life-giving one or a destructive one. No
one has the luxury of choosing here because all of us are
precisely fired into life with a certain madness that comes from
the gods and we have to do something with that. We do not wake
up in this world calm and serene, having the luxury of choosing
to act or not act. We wake up crying, on fire with desire, with
madness. What we do with that madness is our spirituality.”
V́ thế, sống tâm linh không chỉ giới hạn ở việc đi nhà thờ, cầu
nguyện, suy niệm, đọc sách thiêng liêng nhưng là sống với ngọn
lửa đang âm ỉ cháy trong ḷng chúng ta:
“What we do with that
fire, how we channel it, is our spirituality. Thus, we all have
a spirituality whether we want one or not, whether we are
religious or not.”
Sức lực nội tâm thúc đẩy ta đến hành động chính là tâm linh. Và
điều ǵ thúc đẩy ta đến hành động cũng chính là điều gây nên
những ao ước và thèm khát trong ḷng. Điều đó có thể đem ta đến
một mối tương quan sâu đậm hơn với Thiên Chúa hoặc ngược lại, có
thể hủy hoại hoàn toàn mối tương quan này!: “Spirituality
concerns what we do with desire.”
|
Spirituality concerns what we do with desire |
|
Cha Rolheiser nêu lên thí dụ của ba người phụ nữ nổi tiếng: Mẹ
Têrêsa Calcutta, ca sĩ Janis Joplin và công chúa Diana. Cả ba
người sống với tâm linh của ḿnh ở một cách vượt bực. Mẹ Têrêsa
sống hoàn toàn tận hiến cho Thiên Chúa và những người nghèo khổ
bị gạt ra bên lề của xă hội. Mẹ là một con người mảnh khảnh, nhỏ
bé nhưng với một sinh lực dồi dào vượt mức. Janis Joplin là một
thần tượng của giới trẻ mê nhạc rock, cô có một đam mê xuất
chúng cho cuộc đời, cho tự do hưởng thụ và sống bừa băi đến mức
độ phải chết yểu ở cái tuổi 27 v́ ma túy. Công Chúa Diana là một
người đặc biệt ở chỗ cô ta có cả hai thứ đam mê trong ḷng, một
phần là những danh vọng thế tục, sống sung sướng trên những
chiếc du thuyền sang trọng, phần khác là ḷng thương xót những
kẻ nghèo khó. Một cách nào đó trong ḷng cô có cả hai tinh thần
của mẹ Têrêsa và Janis Joplin. Và cha Rolhaiser viết: “Most of
us, I suspect, are a bit more like Princess Diana: half-Mother
Teresa, half Janis Joplin.”
Nơi trường hợp của Diana chúng ta thấy ḿnh gần gũi v́ sự lựa
chọn một tâm linh luôn luôn phức tạp, một sự giằng co giữa những
yếu đuối bản thân và những nhân đức. V́ kèm theo mỗi lựa chọn là
nhiều chối từ. Muốn lập gia đ́nh với một người phải ngưng chú ư
những người khác; muốn có con cái phải để qua một bên nhiều sinh
hoạt khác; muốn cầu nguyện, đi tĩnh tâm phải từ chối một chương
tŕnh TV hoặc một cuối tuần đi nghỉ mát. Chúng ta lựa chọn điều
ǵ?
Sống tâm linh của ḿnh là lúc điều ǵ chúng ta lựa chọn trở nên
ngọn lửa nung nấu trong ḷng và thúc đẩy chúng ta sống cho lựa
chọn đó, sự lựa chọn đem ta đến một mối tương quan sâu đậm hơn
với Thiên Chúa hoặc ngược lại, có thể hủy hoại hoàn toàn mối
tương quan này!
Ngược lại, người không sống với tâm linh là người không sống với
một sức lực trong ḷng, không có một động lực sâu xa trong ḷng,
nhưng chỉ muốn một cuộc sống thụ động, nằm dài trên ghế salông
xem TV giờ này qua giờ khác, một người như đă mất căn tính và
không c̣n biết ḿnh là ai:
“The opposite of a spiritual person would be someone who has
lost his or her identity, namely, the person who at a certain
point does not know who he or she is anymore. A healthy soul
keeps us both energized and glued together.”
Ở chương cuối, Sustaining Ourselves in the Spiritual Life, cha
Rolheiser nói đến những ǵ chúng ta nên luyện tập và thực hiện
để giúp tạo một lối sống tâm linh lành mạnh. Có những kinh
nghiệm lâu đời được tôn trọng, được thánh hóa, được ghi chép và
thực hành như những truyền thống trong Giáo Hội vẫn được truyền
lại cho đến ngày nay, trong đó có sự cầu nguyện cá nhân cũng như
cộng đoàn, việc phục vụ, giúp đỡ người nghèo, xây dựng cộng
đoàn, ngay cả việc sẵn sàng chịu thương tổn v́ ḷng yêu mến. Cha
Rolheiser viết: “These are still the core practices for a
healthy spiritual life.”
VŨ TIẾN LONG |