|
Giữ thinh
lặng là một nét đặc sắc của các tu sĩ chiêm niệm trong các đan viện. Nó
cũng là điều được khuyến khích và thường được tôn trọng trong những cuộc
tĩnh tâm dành cho bất ḱ ai, không phân biệt linh mục, tu sĩ hay giáo
dân. Mục đích của việc giữ thinh lặng là để suy gẫm, để gặp gỡ Thiên
Chúa.
Có hai thứ thinh lặng: thinh lặng bên ngoài
và thinh lặng bên trong hay nội tâm. Sự thinh lặng bên ngoài chủ yếu cốt
ở tránh giao tiếp bằng lời nói với những người chung quanh. Ngược lại,
sự thinh lặng bên trong không liên quan ǵ đến tương quan với người
khác, nhưng chỉ liên hệ đến chính bản thân. Như chúng ta đều biết, nội
tâm chúng ta làm xuất hiện những ư tưởng, những h́nh ảnh và những điều
tưởng tượng không liên quan ǵ đến việc cầu nguyện; trong nội tâm chúng
ta nhiều khi nổi dậy những t́nh cảm và cảm xúc tự nhiên như vui, buồn
giận, v.v. mà chúng ta quen gọi là thất t́nh. Vậy thinh lặng nội tâm cốt
ở tránh tất cả những cái đó mà chúng ta coi như là những tiếng nói và
những tiếng động gây ồn ào bên trong. Chính cái ồn ào hay náo động này
phá sự yên tĩnh của tâm hồn. Chúng ngăn cản tâm hồn gặp gỡ Thiên Chúa,
sống hiệp nhất với Ngài, lắng nghe những lời nhắn nhủ của Ngài, đón nhận
ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, thưa gửi cùng Thiên Chúa và giải bày
với Ngài những tâm t́nh, những ước nguyện, v.v.
Như vậy, giữ thinh lặng bên trong là để cầu
nguyện. V́ thế, trong viễn tượng đạo đức, sự thinh lặng bên ngoài chỉ có
ư nghĩa khi nó tán trợ hay bảo vệ sự thinh lặng bên trong. Cần nói như
vậy v́ trong không ít trường hợp, sự thinh lặng bên ngoài lại chỉ là cái
b́nh phong che đậy cả một thế giới nội tâm ồn ào, náo động. Sự thinh
lặng bên ngoài c̣n được hiểu theo nghĩa rộng là phải tránh nghe, đọc hay
xem những ǵ có thể phá rối sự trầm mặc của tâm hồn. Nhưng cũng v́ ư
nghĩa hay mục đích của sự thinh lặng bên ngoài là như thế, nên sự thinh
lặng này có tính cách mềm dẻo, nghĩa là, trừ trường hợp nó phải được
tuân giữ tuyệt đối, nó vẫn cho phép có những cuộc trao đổi hay nói
chuyện về Thiên Chúa và về những vấn đề thiêng liêng, những giờ cầu
nguyện chung bằng lời kinh, tiếng hát, những lời khấn nguyện trong lúc
riêng tư.
Nói giữ thinh lặng bên trong để cầu nguyện,
tức là nhận có sự phân biệt giữa thinh lặng nội tâm và cầu nguyện. Nên
nhắc đến sự phân biệt này, bởi lẽ chúng ta thấy rằng môn Yoga hay thiền
Ấn Độ, kể cả thiền Phật Giáo, cũng t́m sự thinh lặng nội tâm, nhưng
không phải để cầu nguyện. Tuy sự thinh lặng nội tâm khác với sự cầu
nguyện, nhưng cả hai gắn liền với nhau chặt chẽ; cái thừ nhất là điều
kiện cần thiết cho cái thứ hai; cái thứ nhất là phương thế, c̣n cái thứ
hai là mục đích.
V́ sự thinh lặng nội tâm cốt ở sự vắng bóng
những cái gây ồn ào náo động trong tâm hồn, nên chúng ta có thể h́nh
dung đây là tâm hồn rỗng không. Nhưng v́ là rỗng không để cầu nguyện,
nên điều này cũng có nghiă là tâm hồn rỗng không để được đầy tràn, và
cái làm đầy tràn chính là sự hiện diện của Thiên Chúa. Nói cách khác,
giữ thinh lặng nội tâm đồng nghĩa với việc gạt bỏ những cái gây ồn ào
náo động để tâm hồn được yên tĩnh, v́ đó là nơi dành riêng cho Thiên
Chúa, Đấng c̣n được gọi là Thiên Chúa thinh lặng.
Sự thinh lặng nội tâm có nhiều mức độ. Con
người càng sống siêu thoát, nghĩa là càng từ bỏ ḿnh và thế gian, th́ sự
thinh lặng càng sâu xa, bởi v́ cái tôi được nuông chiều và thế gian được
ham thích chính là những cái gây ồn ào náo động. V́ thế, ngày xưa các vị
tu rừng vào rừng sâu hay sa mạc là nơi thanh vắng để bỏ lại mọi sự thế
gian như tiền của, danh gía, địa vị. Họ từ bỏ ḿnh bằng cách bắt thân
xác chịu cực khổ, như mỗi ngày hay vài ngày mới ăn một bữa rất đạm bạc,
mỗi đêm chỉ ngủ vài ba giờ. Có vị c̣n đeo
xiềng xích nặng nề, tự giam ḿnh trong cḥi không đủ cao để đứng và
không đủ dài để nằm, v.v. Bằng lối sống siêu thoát như vậy, họ có
ư giữ cho tâm hồn được yên tĩnh để ngày đêm gặp gỡ Thiên Chúa, hay nói
cách khác, để cầu nguyện liên tục trừ lúc ngủ. Điều vừa nói chứng tỏ
rằng sự thinh lặng nội tâm là thành qủa của sự từ bỏ và của cả một công
tŕnh tu luyện. Cũng v́ thế mà có thể nói rằng chỉ các vị thánh - thánh
ở đây hiểu theo nghĩa thánh Công Giáo - mới là những người giữ được sự
thinh lặng nội tâm sâu xa. Nhưng không được phép nói ngược lại rằng
người giữ được sự thinh lặng nội tâm sâu xa là người thánh. Thực vậy, sự
thinh lặng nội tâm tự nó không phải là cầu nguyện hay hiệp nhất với
Thiên Chúa, v́ như đă nói trên, có những người ngoài Công giáo cũng từ
bỏ ḿnh và từ bỏ thế gian để đi t́m sự thinh lặng nội tâm. Vậy khi nói
thinh lặng nội tâm, chúng ta chú ư đến một khía cạnh của linh hồn trong
quan hệ với Thiên Chúa, đó là gạt ra ngoài các thứ "tiếng động" và "ồn
ào" do xác thịt, thế gian và ma qủi gây ra trong tâm hồn, để nhờ đó
chúng ta mới có thể chăm chú gặp gỡ Thiên Chúa với thái độ lắng nghe.
Đây là lúc chúng ta ở trong t́nh trạng hồi tâm, thu tâm (recueillement).
Giữa lúc này, những tiếng động và ồn ào có thể tái xuất hiện và đe dọa
phá vỡ t́nh trạng thu tâm kia. Nhưng dù chúng ta chưa là thánh nhân,
chúng ta vẫn có thể, nhờ ơn phù trợ của Thiên Chúa, cố gắng ngăn cản
được chúng. Chính sự cố gắng này cũng góp phần vào việc chúng ta chống
lại sự cám dỗ của xác thịt, thế gian và ma qủi.
Sau cùng, sự thinh lặng nội tâm cũng cần
được bảo vệ và nâng đỡ bằng cảnh vật yên tĩnh bên ngoài do sự vắng bóng
những người qua lại. Khi đọc Phúc Âm chúng ta biết Chúa Giêsu, sau khi
chịu phép rửa ở sông Giođan, đă vào sa mạc cô tịch và sống ở đó bốn mươi
đêm ngày. Trong quăng đời hoạt động công khai, Ngài từng t́m nơi vắng vẻ
để cầu nguyện: trên núi (Mt 14,23; Mc 6,46; Lc 9,28), trên núi vào lúc
đêm khuya (Lc 6,12); nơi hoang vắng (Lc 5,16); nơi hoang vắng và sáng
sớm, lúc trời c̣n tối mịt (Mc 1.35); trong vườn Giêtsêmani vào lúc đêm
khuya (Mt 26, 36-46).
Hẳn không ai phủ nhận rằng những nơi thanh
vắng, cô tịch là khung cảnh thuận lợi để nâng đỡ và bảo vệ sự thinh lặng
nội tâm. V́ thế, các đan viện của các Ḍng tu chiêm niệm, nếu không ở
những nơi hiu quạnh th́ ít ra cũng nằm trong những khu đất được vây kín.
Các nhà tĩnh tâm cũng thường là những nơi tĩnh mịch, vắng vẻ. Ngay các tu
viện hoạt động tông đồ, khi có thể, cũng có một khoảng đất nhỏ yên tĩnh,
một mảnh vuờn kín đáo chẳng hạn, để dùng làm nơi cho tâm hồn hưởng những
giây phút thư giăn và thanh thản, hoặc sống trầm mặc trong bầu khí êm
dịu của cầu nguyện.
.....
Trích
Tập
San Hiện Diện
|
|
Through prayer
we should come to perceive and savor God within us (the
interne sentire et gustare
of Ignatius). And yet, in prayer, we should not be
seeking any enjoyment but rather the pure service of
God. In order for us to learn how to unite both things,
God takes us into his school, which consists in a
continual alternation of consolations and abandonments,
until we have learned how one can even enjoy in a wholly
selfless manner and how to experience enjoyment itself
as service.
Hans Urs von Balthasar
• • •
Essential existence is
interiority, and the interiority of the acting person is suffering.
Kierkegaard
|
|
|