Trang chính
Bao
DH
2008
2008-03 |
|
. |
|
Hành Tŕnh của Một
Tâm Hồn
|
|
|
|
|
|
|
Đinh Trung Ḥa, SJ |
|
|
|
|
|
Thực sự con rất ngần ngại khi được mời chia sẻ những kinh nghiệm của
đời dâng hiến. Nhưng một ư nghĩ làm con mạnh dạn kể lại cuộc hành
tŕnh của ḿnh, là có thể khi chia sẻ với quư linh mục tu sỹ và các
bạn, con sẽ tạo cơ hội cho con, và cho mọi người có dịp nh́n lại
hành tŕnh của riêng ḿnh trên đường theo Chúa. Con hy vọng những
chia sẻ của con sẽ gợi lên những điểm tương đồng trong kinh nghiệm
của quư cha, quư Soeur, quư anh chị em tu sỹ và các bạn tại đây về
ơn gọi của ḿnh. V́ thế, con suy niệm như Đức Maria, chịu lưỡi dao
sắc cắt mở tâm hồn ḿnh để tâm tư nhiều người được biểu lộ.
|
|
|
1
Trở lại vào cuối
năm 1993, khi con vừa học xong Đại Học, tương lai như đang mở rộng
trước mắt con. Con đă được phỏng vấn và được nhận vào làm trong một
bệnh viện cho năm tới, con đang có một mối t́nh sâu đậm đă ba bốn
năm, và chúng con đă dự định đi đến hôn nhân. Con dường như đă có
tất cả trong tay: t́nh yêu, bằng cấp, nghề nghiệp... Thế nhưng không
hiểu sao, tâm hồn con càng ngày càng cảm thấy xao động, bất an,
trống vắng không thể tả. Con như đang thiếu thốn, khát khao một cái
ǵ đó mà con không thể hiểu nổi. Gia đ́nh con không thể hiểu con. Cô
bạn con khổ sở lắm v́ không thể hiểu được con. Nỗi khao khát, bất an
ấy rất dai dẳng, rất mạnh mẽ và rất thật. Nếu con chối bỏ nỗi khát
khao ấy, con sẽ phải chối bỏ chính sự hiện hữu của ḿnh. Con khổ sở,
dằn vặt vô cùng, v́ không biết tại sao ḿnh lại như thế. Con xin cô
bạn con thời gian để con có dịp t́m ra câu trả lời cho ḿnh.
Vào dịp con về thăm Vũng Tàu năm 1995, con ra viếng thăm tượng Chúa
Giêsu Vua tại đây. Trong khi con đang leo lên những bậc thang bên
trong tượng Chúa, chợt có tiếng vang lên trong đầu con, “Ta là đường.”
Con mỉm cười thú vị, v́ ḿnh đang thực sự bước đi trên những bậc
thang ở trong tượng Chúa, và ṭ ṃ tự hỏi, “Nếu Ngài là đường, th́
Ngài dẫn người ta đi đâu?” Con tiếp tục bước lên hết những bậc thang
h́nh xoắn ốc, và lên đến vai Chúa. Lên đến nơi, con ngước mắt lên
nh́n xem con đường này dẫn người ta đi đâu. Nh́n lên, con chỉ thấy
trời thôi. Thế rồi con chợt hiểu: Chúa Giêsu chính là con đường dẫn
đến Thiên Chúa Cha. Rồi con đột nhiên nhận ra Thiên Chúa chính là
Đấng Toàn Chân, Toàn Thiện, Tuyệt Mỹ mà tâm hồn con đang khao khát.
Con như vừa bị một tiếng sét đánh, ngây ngô, bàng hoàng như người
vừa tỉnh cơn mơ.
Con chạy vội xuống chân Chúa, chạy ra một quăng xa và nh́n lại. Trời
ơi, tất cả là sự thật! Ngài chính là con đường dẫn đưa con người đến
với Thiên Chúa. Thế mà người ta đă không nhận ra Ngài, chối bỏ và
giết chết Ngài. Ngay cả con cũng không nhận biết Ngài. Con chợt nhận
ra Chúa Giêsu và cảm động quá. Con cũng ngỡ ngàng nhận ra chính ḿnh:
con đang khao khát Thiên Chúa. Thiên Chúa chính là câu trả lời cho
những khắc khoải và bất an vô tận của con.Our conscience |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
2
Thế là bắt đầu
cuộc hành tŕnh của con t́m kiếm Thiên Chúa, và t́m kiếm nhân vật
Giêsu. Con bắt đầu đặt câu hỏi lại với tất cả: niềm tin, cứu chuộc,
tội, ân sủng, sống và chết, ... Con bắt đầu cầu nguyện, một việc con
không làm đă rất lâu, và bắt đầu lần giở lại những trang Kinh Thánh.
Trong kinh nguyện, con cảm nhận được lời kêu mời của Thiên Chúa: hăy
vượt lên trên tất cả mọi trở ngại, và gặp gỡ, kết liên với Thiên
Chúa. Đây chính là câu giải đáp cho đời con. Con biết đây là ơn gọi
của tất cả mọi người: ơn gọi kết hợp với Thiên Chúa. Thế nhưng Chúa
muốn con sống mối liên kết với Chúa bằng cách nào? Trong bậc gia
đ́nh, làm tu sỹ, hay sống độc thân? Đây là câu hỏi quá khó, v́ chọn
lựa này sẽ ảnh hưởng đến cả đời con, và ảnh hưởng đến rất nhiều
người thân yêu của con. Lại một lần nữa con khổ sở, giằng co, khi lư
tưởng va chạm vào thực tế. Làm sao con chọn lựa được, v́ nhiều người
đang trông cậy nơi con, tin tưởng nơi con? Vả lại, ra đi là từ bỏ
tất cả những ǵ con có: nghề nghiệp, gia đ́nh, t́nh yêu... để đi
theo một giấc mơ.
Lúc này, con hay hỏi, “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm ǵ?” Con như chạy
quanh măi hết đường, cuối cùng phải quay trở lại đối đầu với những
ǵ ḿnh hoài chạy tránh, “Lạy Chúa, Chúa muốn con đi đâu, con sẽ đi
theo đó”. Con chạy măi tả tơi, bây giờ đứng lại đầu hàng. Con không
có câu trả lời khi con kiếm t́m ư muốn của con. Con tê dại, tơi tả,
rách nát. Con t́m đến Chúa và hỏi: “Chúa muốn ǵ?”
Dần dà, con nhận ra điều này: khi con suy nghĩ về cuộc sống hôn nhân,
con thấy như có cánh cửa đóng xầm trước mặt con. Nhưng khi con suy
nghĩ về đời tu tŕ, con cảm thấy an b́nh, có niềm vui và sự sống.
Dần dà, từng bước nhỏ, con t́m ra sức mạnh và sự hướng dẫn của Chúa
trong cầu nguyện, và thấy ḿnh được kêu gọi dấn thân bước theo Chúa,
dẫu biết ḿnh tội lỗi, bất xứng.
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
3
Hành Tŕnh Nội
Tâm
Khi mới bắt đầu đời sống tu tŕ, con nhận ra ḿnh khao khát Thiên
Chúa, và khao khát vô cùng được vươn lên trên mọi sự để kết hợp với
Thiên Chúa. Thân phận con người phù du tạm bợ, ví như h́nh ảnh “bèo
dạt mây trôi” của người thi sỹ nọ. Khi con nhận ra thân phận con
người của ḿnh, con vô cùng ao ước được thoát ra khỏi cái thân phận
sâu kén của ḿnh, để tung cánh bướm bay lên t́m kiếm cái toàn thiện,
tuyệt mỹ, để tiếp cận với cái thường hằng vĩnh cửu. Trong những lần
tĩnh tâm, con nao nức kiếm t́m Thiên Chúa trong cái tuyệt đối, trong
siêu nhiên vô h́nh.
Một lần cha linh hướng nói con giống con ḅ h́ hục sau cánh cổng,
t́m lối thoát ra. Cha hỏi con, “Con đang t́m ǵ”. “Con muốn t́m Chúa
Giêsu”. Cha hỏi, “Chúa Giêsu là ai?”. “Chúa Giêsu là Thiên Chúa
xuống thế cứu chuộc con người.” Cha nghiêm trang nói, “Không phải,
Chúa Giêsu là người, và con càng trở thành người bao nhiêu con càng
trở nên giống Chúa bấy nhiêu”.
Qua lời khẳng định này, con tự hỏi ḿnh đang kiếm t́m Thiên Chúa ở
đâu? Dần dà con cảm nhận được Chúa Giêsu trong mầu nhiệm Nhập Thể.
Khi Chúa đến làm người, mang lấy thân sâu nhộng như con, th́ trong
thân phận làm người của con, con có thể tiếp cận Thiên Chúa. Thân
phận con là bèo là mây, nhưng khi Chúa đến làm bèo làm mây với con,
con không cần phải vượt thoát khỏi thân phận bèo mây của ḿnh. Con
t́m thấy trong cái phù du tạm bợ của cuộc đời con có cái thường hằng
vĩnh cửu là Chúa. Con dần dà nhận ra ơn gọi làm người của ḿnh, ơn
gọi của con không đưa con vượt thoát khỏi thân phận con người, nhưng
vượt thoát khỏi ngục tù của bản ngă, của cái tôi để bước đi theo
Chúa. Con vẫn là bèo là mây, nhưng bèo mây trôi về nguồn cội, là
chính Chúa.
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
4
Ra Đi và Trở Về
Trong đời sống tu tŕ, con thấy hành tŕnh của con là những cuộc ra
đi và trở về. Nhạc sỹ Trịnh Công Sơn hát: “Một hôm em ra phố về,
thấy đời ḿnh là những chuyến xe.” Cuộc đời con là những chuyến xe,
chuyến tàu ra đi và trở về. Ra đi khỏi những bến bờ an toàn để đến
những vùng biển xa lạ. Con ra đi khỏi chốn thân quen của gia đ́nh,
của bằng hữu, của nghề nghiệp, môi trường văn hóa và ngôn ngữ để
bước đến những nơi bất định. Con lạ lẫm theo các Soeur Áo Nâu Brown
Sisters đi chăm sóc cho các người già đơn độc quanh nội thành
Sydney. Con ngồi la cà làm quen với những người nghiện rượu sống tại
trung tâm Greenvale. Con bỡ ngỡ, sợ hăi đứng trước lớp học không
biết làm sao giữ trật tự tại trường Trung Học Mt Druitt, Sydney. Con
t́m cách làm quen với các người Thổ Dân Aborigines tại vùng Balgo,
Kimberley. Con ra đi, và con cũng trở về. Con trở về với cội nguồn
văn hóa của con khi con va chạm với văn hóa Tây phương, hay tiếp cận
với văn hóa của người Thổ Dân. Con trở về với giá trị thực của con
người ḿnh; trở về với nguồn trợ lực, nguồn sức sống của đời con là
chính Chúa. Lắm lúc, ra đi chính là trở về. Cha Hoàng Mạnh Hùng OP
dùng h́nh ảnh này, “Giọt nước tách ḿnh ra khỏi nguồn nước là bắt
đầu một cuộc hành tŕnh về với cội nguồn đích thực của ḿnh.” Con ra
đi, và trở về, nhưng khi con trở về, con không trở về với nơi ḿnh
ra đi, nhưng mỗi lần càng đi sâu hơn vào cuộc hành tŕnh, như h́nh
xoắn ốc. Con nhận ra càng đi con càng tiến sâu trong tương quan với
Thiên Chúa.
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
5
Chiêm Niệm Hay Hành
Động?
Lúc mới vào ḍng, con thích cầu nguyện lắm, v́ đó là nơi con t́m
gặp, và cảm nhận được sự hiện diện yêu thương của Thiên Chúa. Nhưng
khi con bắt tay vào công việc, vào hoạt động, con cảm thấy ḿnh xa
rời sự hiện diện của Thiên Chúa. Con vật lộn hoài với câu hỏi này:
làm sao t́m gặp Thiên Chúa trong hành động? Làm thế nào để trở thành
người ‘Chiêm niệm trong hành động’? Con có phải chọn lựa giữa chiêm
niệm và hành động hay không? Trong suy niệm, con nhận biết Thiên
Chúa trở thành nguyên nhân dầu tiên và mục đích sau cùng của các
hoạt động tông đồ, con làm những công việc này v́ Chúa. Nhưng làm
thế nào để t́m gặp, để cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa trong
hành động của con?
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
6
Đông Timor
a. Hy Sinh và Lư Tưởng
Khi xem tin tức về các cuộc bạo động bên Timor trên truyền h́nh, con
cảm thấy rạo rực trong ḷng: con phải làm ǵ cho đất nước và dân tộc
khổ sở này? Con hỏi Chúa: “Lạy Chúa, con có thể làm được ǵ?” Khi
nhận được tin hai linh mục Ḍng Tên bị sát hại, con xúc động mănh
liệt. Linh mục trẻ Dewanto tại Suai che chở cho một số người Đông
Timor ẩn nấp trong nhà thờ, cha tiến ra thương lượng với đám dân
quân, và bị họ dùng dao giết chết. Con cảm động vô cùng khi suy niệm
lời Chúa Kitô, “ Này là ḿnh tôi, bể nát v́ anh em. Này là máu tôi,
tuôn đổ v́ anh em.” Cái chết của hai cha gắn liền với ơn gọi theo
Chúa, hiến thân ḿnh như chính Chúa Kitô. Con rất xúc động không
phải v́ ước muốn tử đạo, nhưng v́ lư tưởng cao quư của ơn gọi: dấn
thân, quên ḿnh cho những người khốn khổ, cô thế.
b. Đất Nước Máu Lệ
24 năm dưới sự cầm quyền của Nam Dương: chính quyền Nam Dương đổ rất
nhiều tài nguyên, nhân lực vào xây dựng Đông Timor, nhưng cầm quyền
với bàn tay sắt. Nhà cầm quyền kiểm soát rất nghiêm nhặt, không cho
tụ họp từ ba người trở lên. Họ xua dân lập ấp, tạo áp lực đồng hoá
dân tộc, xoá đi văn hoá truyền thống, bản sắc dân tộc; dùng những
biểu tượng truyền thống để hô hào sát nhập vào Nam Dương. Gia đ́nh
Suharto tự định đoạt xây Vương Cung Thánh Đường Dili, đài Chúa Kitô
Vua Cristo Rey of Dili. Người Đông Timor rất bất b́nh, v́ nguy cơ
vong bản, mất quyền tự quyết, nên bắt đầu cuộc dấu tranh dành độc
lập: nhóm Fretilin, tổ chức CNRT (tổ chức kháng chiến Đông Timor) từ
ngay sau cuộc xâm lấn năm 1975.
Cuộc trưng cầu dân ư năm 1999: người Đông Timor đ̣i tự chủ, độc lập
khỏi Nam Dương. Cuộc bạo động kinh hoàng tháng 9 năm 1999 có thể coi
là sự trả thù của quân đội và một số phe nhóm Nam Dương: trừng phạt
sự vô ơn của Đông Timor. Đa số pḥng ốc, cơ sở bị cướp bóc, đốt phá,
đặc biệt những cơ sở do người Nam Dương xây dựng: trường học, bệnh
xá, hội trường, nhà kho, trụ sở, trường Đại học, một số nhà thờ. Rất
nhiều nhà cửa thường dân, chợ búa, cửa tiệm bị cướp bóc và thiêu huỷ.
Rất nhiều làng con đi qua: toàn bộ cơ sở vật chất đáng giá đều bị
tiêu huỷ. Một số khá lớn dân chúng bị đánh dập, tàn sát, rất nhiều
người bị dồn bắt qua Tây Timor với đoàn dân quân, đem qua các trại
tỵ nạn Tây Timor.
c. T́nh H́nh Hiện Tại
Kinh tế: huỷ hoại hoàn toàn. Chợ búa không họp, không có xe cộ
chuyên chở. Mất nhiều tháng sau mới bắt đầu có xe hàng, họp chợ.
Dili nhiều dăy phố chỉ c̣n trơ lại các sườn nhà bị thiêu huỷ. Điện
nước bị cắt đứt, mất khá lâu để cung cấp lại được. Điện thoại không
có, thư từ ra nước ngoài chỉ đưa ra từ Dili, do quân đội đảm trách.
Đường xá tồi tàn, cầu đường hư hỏng nhiều chỗ. Lương thực cần cung
cấp khẩn cấp. Khi con tới nơi, các bà các cô bày bán lẻ tẻ mấy thứ
trái cây bên vệ đường, bên những ngôi nhà cháy đen.
Hệ Thống Giáo Dục và Y Tế: hoàn toàn sụp đổ v́ các cơ sở, pḥng ốc,
phương tiện bị cướp phá, huỷ hoại hoàn toàn, trong khi đó các nhân
viên người Nam Dương, vốn giữ vai tṛ then chốt trong các hệ thống
này, đều về nước, để lại một lỗ hổng rất lớn, không thể trám lấp
được.
d. T́nh trạng sức khoẻ:
Lúc con tới cuối tháng 12, mùa mưa được hai tháng, bệnh sốt rét đang
lan tràn khắp nước. Đồng thời, do suy dinh dưỡng lâu năm, sức đề
kháng suy giảm, người dân bị lây nhiễm các bệnh truyền nhiễm: như
nhiễm trùng đường hô hấp, tiêu chảy, bệnh ngoài da, giun sán và lao.
Con được gởi đến Luro, một tỉnh lỵ nhỏ khoảng 200 cây số phía Đông
Thủ Đô Dili. Tại đây có khoảng 11000 dân, sống bằng nghề nông, một
số ít chăn nuôi trâu ḅ, và một số nhỏ các làng ven biển sống bằng
nghề đánh cá. Tại đây có một bệnh xá nhỏ, do MDM thành lập (Medicos
Del Mundo: Hội Y Sỹ Thế Giới, chi nhánh Bồ Đào Nha). Bệnh xá này
thâu dụng 4 nhân viên y tế địa phương, thuốc men do MDM cung cấp, và
phục vụ cho dân số khoảng 3000 tại các làng lân cận. Nhu cầu y tế:
c̣n khoảng 8000 đến 9000 người chưa có dịch vụ y tế. Các nhu cầu y
tế rất khẩn thiết, do các bệnh tật lan tràn, nhưng nhiều nơi chưa có
nhân viên y tế đặt chân tới sau cuộc bỏ phiếu.
Chỉ với đôi tay nhỏ bé, thiếu thốn kinh nghiệm, thuốc men, dụng cụ y
tế, con được gởi đến để đáp ứng nhu cầu y tế cho khoảng 9000 người
dân cư, sống tản mác trong các làng mạc trên vùng đồi núi.
e. Con Cá, Chiếc Bánh và
Con Người
Con đặt chân tới Luro, và cảm nhận tiếng Chúa nói: “Các con hăy cho
họ ăn”. Trước nhu cầu quá lớn, và phương tiện quá nhỏ nhoi trong tay,
con thường tự hỏi, “Con có thể làm được ǵ đây?” Sau thời gian đầu
lo sợ, bỡ ngỡ, con bắt đầu nhập cuộc, và xem xét những phương tiện
và nhân lực hiện có. Tại Luro có 7 nhân viên y tế địa phương: 4
người đang làm cho MDM, 3 người vẫn chưa có việc làm: một y sỹ, một
dược sỹ, một nữ hộ sinh.
Trạm Y Tế Lưu Động: Con đến nói chuyện và tham khảo với các nhân
viên y tế địa phương. Khi con đề nghị họp nhau lập ra một trạm y tế
lưu động, họ rất nhiệt t́nh hưởng ứng. Con mời ba người tại Daudere,
và một y tá tại Luro, thành lập nhóm y tế, gồm có sáu người (kể cả
con và người thông dịch). Con đến văn pḥng cao ủy OCHA xin họ trợ
giúp cho nhân viên của nhóm gạo và một ít tiền mỗi tháng. Mỗi ngày
chúng con đến một làng khám bệnh và cho thuốc, chăm sóc vết thương,
có thông dịch viên đi theo. Hôm đầu tiên, chúng con đến làm việc tại
Daudere và gặp 189 bệnh nhân. Rất nhiều người bị sốt rét, nhiễm
trùng phổi trong suốt 3-4 tháng không ai chữa trị. Trung b́nh, chúng
con gặp từ 40 đến 150 bệnh nhân mỗi ngày. Buổi trưa, các ông trùm
trong làng mời cả nhóm về ăn cơm.
Bệnh nhân đến từ khắp nơi, nhiều người đi bộ 4 tiếng băng rừng lội
suối, bế con nhỏ đến gặp con. Nhiều trẻ em 5, 6 tuổi bị sốt rét suốt
3 tháng, vàng vọt, đờ đẫn, lại suy dinh dưỡng trầm trọng. Nhiều
người bị lao phổi suốt 10 năm trời không được chữa trị. Có người do
suy dinh dưỡng, thân thể quá suy nhược uống bao nhiêu thuốc trị lao
cũng không thể hồi phục được. Nhiều làng vùng núi, tất cả trẻ em đến
khám bệnh đều bị giun sán và tiêu chảy, v́ nguồn nước bị ô nhiễm.
Nhiều lần hết thuốc, con khổ sở v́ thương người bệnh tật, phải đi gơ
cửa hết mọi nơi: đến Hội Y Sỹ Thế Giới (MDM) tại Los Palos, trại
lính InterFET Nam Hàn, các Soeur Nhật Bản, UNICEFF Dili. Cùng khó
vái tứ phương. Nhiều chuyến đi về không, con rất chán nản và ấm ức,
trong khi số lượng thuốc quyên góp c̣n nằm ở Darwin chờ chuyên chở.
Trong lúc phục vụ cho nhu cầu y tế trước mắt, chúng con nhắm đến mục
đích lâu dài: là tái thiết lập hệ thống y tế cho địa phương, để nhân
viên y tế tiếp tục cung cấp cho nhu cầu của người dân. Ưu tiên hàng
đầu: huấn luyện nhân viên y tế bằng cách làm việc chung, rút tỉa
kinh nghiệm, nâng cao tay nghề cho họ. Trong các lớp học cuối tuần:
bàn luận về các vấn đề y tế, phương pháp vệ sinh, khử trùng, khám
bệnh, ra toa cho thuốc. Kêu gọi, cổ động Liên Hiệp Quốc UNTAET, MDM
trợ giúp và cho phép những nhân viên có tay nghề được phép hành nghề,
được cung cấp thuốc men, phương tiện làm việc, để họ có khả năng
cung ứng cho các nhu cầu trong cộng đồng của họ.
Một hôm kia, trong khi khám bệnh tại một làng vùng núi, có một chị
vào khám bệnh. Chị chỉ khoảng 47 tuổi, bàn tay chị trơ xương, làm
con nghĩ ngay đến bệnh cùi. Nhưng khi hỏi chuyện chị, con mới biết
chị bị thương tật cột sống khi chạy loạn lên núi trong cuộc biến
loạn năm 1975. Nh́n chị chỉ có da bọc xương, xanh xao, lưng cong g̣,
thật tội nghiệp. Con hỏi:
- Mỗi ngày chị ăn mấy bữa?
- Có ngày ăn một bữa, có ngày không có bữa nào.
- Tại sao thế?
Chị ngập ngừng,
- V́ nhà không có ǵ ăn.
- Ở nhà chị ở với ai?
- Ở một ḿnh. Tôi có người em, hiện đang ở bên Tây Timor.
- Bây giờ đang mùa gặt bắp, chị có bắp ăn không?
- Không, v́ tôi bệnh tật, đâu có trồng cấy ǵ được!
Chị mỏi mệt đứng lên, và kêu thốt lên một tiếng, lảo đảo vịn tay vào
tường v́ chóng mặt. Chị chỉ có da bọc xương, mảnh khảnh, run rảy v́
kiệt sức. Bỗng mắt con nhạt nḥa, “Trời ơi, Chúa đó sao?” Con như
chợt nhận ra Chúa Kitô trong h́nh hài người thiếu phụ đau khổ này:
tàn tật, cô đơn, đói khát, bệnh hoạn, t́m đến gặp con. Con bủn rủn
v́ bất ngờ tiếp cận với Chúa trong t́nh cảnh này.
Chính Chúa đến trong hành động của con, và biến hành động thành
chiêm niệm.
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
7
Vài Suy Tư Về Kinh
Nghiệm Tông Đồ
- Con cần hiện diện giữa cuộc đời như Chúa Giêsu đă đến để hiện diện
giữa cuộc đời. Con không t́m cách che lấp thực tế, hay chối bỏ, hoặc
thi vị hoá thực tế, nhưng cần nh́n vào thực trạng của cuộc đời, với
con mắt, đôi tay, trái tim, trí óc của người đă nhập cuộc.
- Làm việc tông đồ, con đến với những con người để giúp họ t́m ra
cách giải quyết những khó khăn của họ, giúp họ có khả năng và điều
kiện để thực hiện các chương tŕnh phục vụ và phát triển cho địa
phương họ. Nếu là người cho, con rất dễ ghiền vai tṛ này, muốn bảo
toàn vai tṛ của ḿnh là người phân phát. Con cần phải cho đi cả cái
vai tṛ ấy. Cái ǵ làm con trở thành người cho? Tài sản? Địa vị?
Tiền bạc? Danh tiếng? Bằng cấp? Con có dám cho đi cả những thứ này,
để trở thành người trắng tay, để tiếp xúc với mọi người chân chất,
đơn sơ như chính Đức Kitô không?
- Con cần ư thức là ḿnh được sai đi. Chúa gửi con đến làm phương
tiện mang đến sự sống cho mọi người. Không phải sứ vụ của con để sở
hữu, để tự hào, nhưng là sứ vụ của Chúa. Con là khí cụ đơn sơ, nhỏ
bé trong tay Chúa. Ơn gọi tông đồ là ơn gọi đồng hành với Thiên Chúa
bước vào đời, để làm chứng tá cho t́nh yêu Thiên Chúa.
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
| |