Mặt
trời
đỏ
au, tṛn ủng
như
một
trái banh
lửa từ
từ
rơi
xuống,
lăn
khỏi
ngọn
đồi
xám ngắt
đằng
trước
một
khu điều
dưỡng
tồi
tàn, xập
xệ.
Rồi
những
giọt
nắng
cuối
cùng cũng
tắt
lịm
hẳn
đi,
để
lại
sau lưng
một
màu tím ảm
đạm.
Trời
bắt
đầu
chuyển
lạnh
và gió chiều
se se thổi,
lay động
những
cành cây
khô khẳng
khiu, đứng
run trong nỗi
cô đơn,
tuyệt
vọng.
Ông Từ
ngồi
đó,
lặng
yên như
một
bức
tượng
trên chiếc
xe lăn
cũ
kỹ,
tại
một
căn
pḥng nhỏ
bé nằm
cuối
khu viện
dưỡng
lăo, mắt
ngắm
nh́n cảnh
mặt
trời
lặn
với
một
nỗi
xót xa, trống
vắng.
Đây
đó
nhà nhà đă
bắt
đầu
lên đèn.
Đường
phố
dường
như
tối
hẳn
đi.
Lâu lâu lại
có một
vài chiếc
xe của
ai đó
lao vụt
qua, như
thể
sợ
bị
trễ
bữa
cơm
chiều
với
gia đ́nh.
Cảnh
tượng
này ông Từ
đă
ngắm
nh́n từ
nhiều
năm
qua, nhưng
tự
nhiên hôm nay ông lại
thấy
nó buồn
tẻ
lạ
thường.
Trước
kia ông cũng
có nhà để
về,
có gia đ́nh
để
ăn
cơm
chung đấy
chứ.
Nhưng
hết
thảy
mọi
thứ
đều
đă
theo cái ánh hoàng hôn mà ra
đi,
để
lại
cho ông một
nỗi
niềm
đau
thương
chua xót.
Ông Từ
trước
năm
75 là một
sỹ
quan quân
đội hào
hùng. Ông kiêu
hănh lấy
được
một
phụ
nữ
xinh đẹp.
Họ
ăn
ở
với
nhau được
hai mặt
con. Nhưng
rồi
miền
nam Việt
Nam rơi
vào tay Cộng
Sản,
cuộc
sống
dân chúng hết
thảy
đều
lâm vào cảnh
lầm
than. Gia đ́nh
ông theo vận
nước
nổi
trôi mà dạt
đến
bến
bờ
tự
do. Những
ngày tháng
đầu tiên
sống
trên đất
Mỹ,
ông Từ
đă
cật
lực
cày hai ba jobs
để
cho vợ
con ông được
sống
xung túc. Nhưng
sức
người
có hạn.
Đến
một
ngày kia, ông Từ
đă
quỵ
ngă v́ bị
stroke. Bác sĩ
cho biết
rằng
ông lo lắng
và làm việc
quá độ
nên bị
nghẹt
mạch
máu năo. Ông
Từ sẽ
bị
bán thân bất
toại
và ngồi
xe lăn
suốt
đời.
Sau khi nghe tin
xét đánh,
ông Từ
đă
nhiều
lần
tự
vẫn,
nhưng
không thành công. Người
vợ
yêu quí bên cạnh
ông bao nhiêu năm
qua, xưa
sống
trong nhung lụa
đă
quen, nay đâm
ra hoang mang lo sợ
trước
t́nh cảnh
mới.
Trong cơn
bí lối
cùng quẫn,
bà đă
bỏ
ông và các con ra
đi,
chung sống
với
một
người
đàn
ông mà trước
kia là lính dưới
quyền
chỉ
huy của
ông mà thôi. Ông Từ
ḷng đau
như
cắt.
Mỗi
lần
nghĩ
đến
vợ
và thuộc
hạ,
ông đều
giận
giữ,
chửi
đổng:
- Đồ
phản
bội!
Toàn là một
lũ
chó má.
Rồi
nh́n sang các con, ông Từ
tưởng
rằng
sẽ
t́m được
sự
an ủi.
Nào ngờ
hai đứa
con của
ông cũng
bỏ
ông đi
luôn, sau khi
đem
ông vào viện
dưỡng
lăo này. Đứa
lớn
phần
v́ hận
mẹ,
phần
v́ giận
ông không lo
được
cho nó đến
nơi
đến
chốn, đă
bỏ
đi
tiểu
bang khác lập
nghiệp.
Bao nhiêu năm
trời
bặt
vô âm tín. Nó chẳng
thư
từ,
hay về
thăm
cha lấy
một
lần.
Cuối
cùng th́ ông
được
tin cảnh
sát cho biết
là con ông v́ muốn
làm giàu nhanh,
đă
tham gia vào một
nhóm buôn bán ma túy, bị
bắt
và bị
kết án tù
chung thân. Ở
trong tù,
đứa con
trai lớn
vẫn
không muốn
liên lạc
ǵ với
cha mẹ
nó cả.
C̣n đứa
con út th́
ở lại
chung thành phố
với
ông v́ cậu
chưa
đủ
18 tuổi.
Nhưng
có mà cũng
như
không. Chính phủ
đem
cậu
vào Foster Care nuôi dưỡng.
Cậu
cũng
giống
hệt
như
người
anh cậu
vậy,
chẳng
bao giờ
đến
thăm
cha lấy
một
lần.
Nhưng
rồi
chính phủ
cũng
không giữ
được
cậu
lâu. Ngay sau khi vừa
đủ
tuổi
để
rời
khỏi
Foster House, cậu
đă
nhanh chóng tham gia vào một
nhóm băng
đảng
choai choai. Rồi
liền
ngay sau đó
cậu
bị
bắn
chết
trong một
vụ
đánh
lộn
dành gái tại
một
quán cafe. Ngày người
ta đưa
tin con út ông mất,
ông Từ
cũng
chết
lặng
tim, được
đem
vào nhà thương
cấp
cứu.
Sau khi xuất
viện,
cơi ḷng ông trở
nên băng
giá. Từ
đó
cuộc
đời
ông Từ
là những
chuỗi
ngày dài
buồn lê
thê, tăm
tối
như
một
chốn
tha ma. Ông khép kín cửa
ḷng và không muốn
tiếp
xúc với
ai. Mỗi
ngày ông chỉ
thích ngồi
một
ḿnh ngắm
cảnh
mặt
trời
lặn,
như
ngắm
nh́n chính cuộc
đời
của
ông vậy.
Mỗi
khi có người
từ
các hội
đoàn
ở
nhà thờ
đến
thăm,
ông Từ
đều
xua tay đuổi
đi:
- Người
mong th́ lại
không đến.
C̣n người
không mong th́
đến
để
làm ǵ? Rách việc.
Sống
trong bóng tối,
khô cằn
đă
lâu, ông mất
dần
đi
cái cảm
giác yêu và
được
yêu. Lần
lần
rồi
th́ ông Từ
cũng
bỏ
dự
lễ
và giữ
các điều
phụng
vụ.
Mỗi
khi có người
đem
Ḿnh Thánh Chúa vào cho bịnh
nhân, ông
đều từ
chối
nhận
lănh, và đuổi
họ
đi.
Mối
liên hệ
giữa
ông và Thiên Chúa ngày càng xa cách.
Đâu
đâu
ông cũng
chỉ
thấy
một
màu xám thê lương,
ảm
đạm
của
sự
chết....
Mải
mê ch́m đắm
trong suy tư,
ông Từ
không biết
là đă
có người
đứng
sau lưng
ông tự
năy giờ.
Cô gái chờ
đợi
một
lúc, thấy
ông Từ
không để
ư, cô đành
phải
tiếng
để
phá tan đi
cái bầu
không khí yên tĩnh,
và quá ngột
ngạt
của
căn
pḥng:
- It’s time for
dinner.
Ông Từ
giựt
ḿnh, nh́n quanh và nhận
ra đó là
tiếng
của
cô y tá mới
vào làm việc
ở
đây
được
vài ngày. V́ cô là người
mới
đến,
nên bị
mọi
người
đưa
vào phục
vụ
cho ông Từ,
một
bịnh
nhân khó tính nhất
ở
đây.
Cô vui vẻ
tiến
lại
gần
ông, đẩy
cho chiếc
xe lăn
về
phía cửa
pḥng. Rồi
tiện
tay, cô bật
công tắc
điện
cho đèn
sáng lên mà không biết
là ông Từ
vốn
không thích ánh sáng. Ánh
đèn
tỏa
lan, tràn ngập
khắp
căn
pḥng, làm ông chói mắt.
Ông Từ
bực
dọc,
tính gắt
ầm
lên. Nhưng
rồi
lại
thấy
hôm nay trong người
không được
khỏe,
không c̣n hơi
sức
đâu
mà la rày ai nữa,
ông đành
ngồi
thụ
động
trên xe, để
mặc
cho cô y tá
đẩy
nhanh về
phía pḥng
ăn. Vừa
đi,
cô vừa
nhắc
cho ông nhớ
là hôm nay sẽ
có một
nhóm người
Việt
Nam, thuộc
các hội
đoàn
trong giáo xứ
sẽ
đến
hát giúp vui sau bữa
cơm
chiều
mừng
lễ
Phục
Sinh và sẽ
có thừa
tác viên Thánh Thể
cho bịnh
nhân rước
lễ.
Hôm đó
ông Từ
ăn
uống
vội
vă, rồi
tự
tay lăn
chiếc
xe về
pḥng mà không
đợi
ai giúp. Ông bỏ
đi
như
thể
trốn
tránh một
cái ǵ đó.
Về
được
đến
pḥng, ông thở
phào nhẹ
nhơm v́ tưởng
là có thể
được
yên thân
trong cái thế
giới
riêng vỏ
ốc
của
ḿnh. Nào ngờ
tiếng
đàn
hát vang lên văng
vẳng,
vọng
lại
từ
phía pḥng
ăn:
“Nào ta hăy mừng
vui!
Chúa đă
sống
lại
thật
rồi.
Alleluia a.. a
...”
Ông Từ
tự
dưng
nổi
cáu, lẩm
bẩm
một
ḿnh:
- Mừng
với
lại
chả
vui. Đúng
là một lũ
vô công rỗi
nghề.
Các ngươi
th́ biết
cái quái ǵ về
đau
khổ
mà bảo
người
khác mừng
với
lại
chả
vui?
Ông Từ
bực
dọc
lăn
xe về
mé giường,
định
bụng
là sẽ
lên giường
ngủ
sớm
mà không cần
gọi
đến
cô y tá giúp.
Đang
loay hoay với
chiếc
xe bị
kẹt
lại
ở cuối
giường
th́ bỗng
mắt
ông chạm
phải
một
đôi
mắt
to đen
lay láy. Ông giật
ḿnh nh́n lên. Th́ ra
đó
là đôi
mắt
của
một
cậu
bé con độ
chừng
bốn
hay năm
tuổi.
Người
nó trông yếu
đuối,
xanh xao lắm,
nhưng
có đôi
mắt
th́ lại
rất
linh động
và dường
như
biết
nói. Cậu
ta cứ
nh́n ông đăm
đăm
làm cho ông khó chịu.
Nếu
như
là mọi
lần
th́ có lẽ
ông Từ
đă
gắt
ầm
lên. Nhưng
nay v́ người
khách lạ
lại
là một
cậu
bé tí hon yếu
đuối,
nên ông Từ
lúng túng chẳng
biết
phải
làm sao. Đang
lúc phân vân không biết
có nên đuổi
khách như
mọi
lần
chăng,
th́ cậu
bé tiến
lại
gần
ông. Theo phản
ứng
tự
nhiên, ông Từ
ngả
người
ra đằng
sau. Nhưng
cậu
bé vẫn
bước
tới
và đặt
vào tay ông một
quả
bong bóng màu xanh. Vừa
lúc ấy,
có tiếng
một
phụ
nữ
gọi
con ở
bên ngoài:
- Việt,
con đâu
rồi?
Cậu
bé giựt
ḿnh, vội
ù té chạy,
bỏ
lại
ông Từ
trong căn
pḥng vắng,
vẫn
c̣n ngồi
ngơ
ngác nh́n chiếc
bong bóng màu xanh mà chưa
hiểu
ǵ.
Sau bận
đó
trở
đi,
cứ
mỗi
tuần
vào Chủ
nhật,
lúc th́ buổi
sáng, khi th́ buổi
chiều,
cậu
bé lại
đến
thăm
ông. Nghe người
ta kể lại
th́ cậu
bé đó
là con của
một
phụ
nữ
trẻ
làm thừa
tác viên Thánh Thể
trong giáo xứ.
Cậu
bé bị
bịnh
tim ngay từ
khi lọt
ḷng mẹ.
Bố
cậu
v́ có vợ
bé nên đă
bỏ
mẹ
con cậu
khi cậu
vừa
tṛn 2 tháng tuổi.
Ông ta khai không nghề
nghiệp,
làm tiền
mặt
để
khỏi
phải
chu cấp
ǵ cho mẹ
con cậu
cả.
Thế
là hai mẹ
con cậu
đă
phải
sống
trong cảnh
cô đơn,
thiếu
thốn.
Nhưng
đáng
phục
là ở
chỗ,
cho dù ở
bất
cứ
hoàn cảnh
nào, hai mẹ
con cậu
vẫn
trông cậy
ở
Chúa và sẵn
sàng chia xẻ
t́nh yêu Ngài
đến
với
người
xung quanh.
Đến khi
cậu
bé lơn
lớn,
người
mẹ
bắt
đầu
tham gia vào nhóm thừa
tác viên Thánh Thể.
Cô t́nh nguyện
đem
Ḿnh Thánh Chúa
đến
cho những
người
bịnh
không thể
tham dự
thánh lễ
với
cộng
đoàn
được.
Trong khi mẹ
cậu
đọc
Phúc Âm và cho mọi
người
chịu
Ḿnh Thánh Chúa
ở
pḥng lân cận,
th́ cậu
bé lại
lẻn
sang pḥng thăm
ông Từ.
Sau một
thời
gian dài, ông Từ
đă
thấy
ḿnh quen dần
với
sự
có mặt
của
cậu
bé có cái gương
mặt
xanh xao và
đôi
mắt
to đen
ấy.
Cậu
chẳng
nói chuyện
bao giờ,
chỉ
nh́n ông một
lát rồi
đặt
vào tay ông một
quả
bong bóng màu xanh, màu xanh của
sự
hy vọng.
Ngày tháng cứ
thế
trôi qua lặng
lẽ.
Rồi
mùa đông
đến,
ông Từ
lại
không thấy
cậu
bé và người
mẹ
đâu
cả.
Người
đem
Ḿnh Thánh Chúa
đến
giờ đây
lại
là một
người
đàn
bà đứng
tuổi.
Ông Từ
chờ
đợi
một
tuần,
rồi
đến
hai tuần.
Cuối
cùng, v́ nhớ
cậu
bé quá nên ông
đánh
liều
hỏi
người
thừa
tác viên Thánh Thể
mới:
- Xin lỗi
bà, bà cho tôi hỏi.
Người
phụ
nữ
vẫn
thường
đem
Ḿnh Thánh Chúa
đến
đây
và cả con
của cô
ta nữa
bây giờ
ở
đâu?
Sao họ
để
cho bà đi
giúp vậy?
Người
đàn
bà ôn tồn
trả
lời:
- Dạ
thưa
ông, mấy
hôm nay con của
cô ta trở
bịnh
tim, phải
vào bịnh
viện
điều
trị,
hiện
vẫn
c̣n trong thời
gian nguy hiểm.
Bác sỹ
nói có thể
là phải
mổ.
Không biết
cậu bé
có sống
nổi
nữa
không. Nếu
nó chết,
th́ không biết
là mẹ
nó sẽ
ra sao.
Ông Từ
nghe xong th́ lạnh
tái cả
người.
Suốt
mùa đông
năm
ấy,
người
ta thấy
ông cứ
co ro ra vào pḥng khách, mắt
dơi về
phía cánh cửa
chính như
chờ
đợi
một
ai đó.
Ḷng ông cứ
bồn
chồn
lo lắng.
Ông dường
như
là lo sợ
sắp
sửa
lại
mất
đi
một
cái ǵ nữa
rất
quí giá trong
đời.
Cuối
cùng v́ không thể
chịu
đựng
được
nữa,
ông Từ
đă
quyết
định
theo một
số
người
bịnh
ở
pḥng bên cạnh
đến
nhà thờ
dự
lễ
Chủ
Nhật
và cầu
nguyện
cho cậu
bé qua cơn
hiểm
nghèo.
Hôm đó
lại
là Chúa Nhật
Lễ
Lá. Khi chiếc
xe van chở
các ông bà cụ
dừng
lại
ở
cửa
chính của
nhà thờ,
th́ ông Từ
lại
bắt
đầu
tần
ngần,
nửa
muốn
vào, nửa
muốn
không. Ông không giữ
đạo
đă
lâu, nay trở
lại
nhà thờ
nên có phần
ngài ngại
làm sao đó.
Nếu
không phải
là để
cầu
nguyện
cho cậu
bé, có lẽ
cho đến
bây giờ
ông vẫn
chưa
chịu
đi
nhà thờ
đâu.
Thấy
ông Từ
chần
chừ
chưa
vô, anh tài xế
lại
không hiểu
ư, tưởng
là ông Từ
cần
giúp đẩy
chiếc
xe lăn,
nên anh chạy
lại
gần
bên, phụ
một
tay đẩy
cho chiếc
xe phóng nhanh qua cửa.
Vào được
đến
bên trong, ông Từ
thấy
ḷng ḿnh an tâm hơn.
Nhà thờ
hôm nay chật
ních những
người,
có lẽ
là v́ cộng
đoàn
đang
bước
vào tuần
thánh. Ai nấy
đều
dự
lễ
sốt
sắng.
Riêng chỉ
có ông Từ
là xem lễ
một
cách bàng quang thôi. Ông
bỏ lễ
đă
lâu, lại
không rành mấy
về
nghi thức
phụng
vụ
nên mọi
thứ
đều
gây sự
chú ư nơi
ông.
Rồi
đến
thứ
năm
tuần
thánh, thấy
các pḥng lân cận
mọi
người
náo nức
đi
dự
thánh lễ,
ông Từ
cũng
nối
đuôi
theo sau lên xe. Nhờ
tham dự
thánh lễ
hôm đó
mà ông Từ
đă
có dịp
nghe lại
đoạn
Kinh Thánh kể
việc
Chúa Giêsu cúi xuống
rửa
chân cho các môn
đệ
yêu dấu
của
Ngài. Nhưng
trớ
trêu thay, liền
ngay sau đó
môn đệ
của
Ngài lại
đáp
trả
bằng
cách người
th́ phản
bội
bán đứng
Thầy,
kẻ
th́ chối
bỏ,
và tất
cả
đều
chạy
trốn,
để Ngài
cô đơn
trong cơn
nguy khó. Ông Từ
thấy
thấm
thía điều
này và trằn
trọc
măi suốt
đêm
hôm đó.
Qua đến
ngày thứ
sáu hôm sau, ông Từ
lại
thấy
trong ḷng không yên, nên một
lần
nữa
ông theo nhóm người
bịnh
đến
nhà thờ.
Hôm nay cộng
đoàn
đi
Chặng
Đàng
Thánh Giá.
Ông theo mọi
người
đi
hết
14 chặng
với
một
dáng vẻ
trầm
ngâm, suy tư.
Càng đi,
ông lại
càng thấy
Thiên Chúa mà trước
kia ông xem là một
Đấng
xa lạ
v́ không đồng
cảm,
giờ
đây
lại
là một
Đấng
đầy
ắp
yêu thương
và gần
gũi.
Ông nhận
thấy
Đức
Giêsu Kitô,
Con Thiên Chúa khi xuống
thế
làm người,
đă
nếm
trải
tất
cả
mọi
thứ
đau
khổ
ở
đời.
Từ
nghèo nàn, cô
đơn
cho đến
bị
kết
án , tù đày.
Bị
đánh
đập
và bị
phỉ
báng. Rồi
cuối
cùng, để
hoàn tất
công tŕnh cứu
độ
của
Ngài, Con Thiên Chúa
đă
chịu
chết
tức
tưởi
đau thương
trên Cây Thập
Giá. Cái chết
là cái mà con người
ta vẫn
hằng
sợ
hăi và lo lắng
nhất
th́ Ngài cũng
chẳng
khước
từ
nhận
lănh. Ngài
đă
đi
là đi
cho đến
cùng đích.
Vậy
th́ c̣n cái chua cay,
đau
đớn
nào nữa
ở
đời
mà Đức
Giêsu Kitô
đă không
trải
qua để
chia xẻ
với
loại
phàm nhân như
ông nữa
chứ?
Ông Từ
suy gẫm
đến
chặng
thứ
14 th́ không thể
cầm
ḷng được
nữa,
ông oà lên khóc rưng
rức
như
một
đứa
trẻ
thơ.
Mọi
người
xung quanh hết
nh́n ông, rồi
lại
nh́n nhau v́ chẳng
hiểu
ǵ.
Tối
hôm đó
ông Từ
chần
chừ
nấn
ná ở lại
nhà thờ
lâu lắm.
Cuối
cùng th́ ông quyết
định
đến
xin phép cha sở
cho xưng
tội
cách đặc
biệt
riêng. Cha sở
thuận
ư và ở
lại
giải
tội
cho ông đến
khuya.
Sáng Chúa Nhật
Phục
Sinh, ông Từ
thức
dậy
thật
sớm
để
chuẩn
bị
tham dự
thánh lễ
với
mọi
người.
Trước
khi đi,
ông Từ
không quên nhờ
cô y tá kéo tung bức
màn che cửa
sổ
dày để
cho những
tia nắng
ấm
áp của
buổi
b́nh minh tràn vào, làm sáng rực
cả
căn
pḥng mà trước
kia vốn
lạnh
lẽo
và tối
như
bưng
của
ông.
Rồi
ông Từ
dự
lễ
sốt
sắng
hôm đó.
Suốt
cả
buổi lễ,
đoạn
Thánh Thư
của
Thánh Phaolô Tông
Đồ
cứ
văng
vẳng
măi bên tai ông: “Anh em hăy vui lên trong Chúa v́ hôm nay anh em
đă
được
tái sinh nhờ
Máu và Nước
của
Đức
Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa Hằng
Sống.”
Ông Từ
xúc động
quá thể.
Đến
khi rước
lễ,
ông run run
bật khóc
một
lần
nữa.
Ḿnh Máu Thánh Chúa thấm
nhập
vào người
ông. Đi
đến
đâu,
Ḿnh Máu Thánh Chúa tỏa
lan như
một
ḍng điện
nóng, làm tan chảy
những
tảng
băng
đông
cứng
đă
chiếm
hữu
ḷng ông từ
bấy
lâu nay...
Sau Thánh lễ
mọi
người
hân hoan ra về,
riêng có
ông Từ
là không thấy
đâu.
Cả
đoàn
xe phải
chờ
đợi
ông măi. Ai nấy
đều
thấy
sốt
ruột,
lo lắng.
Cuối
cùng th́ anh tài xế
phải
bỏ
cả
nhóm người
mà đi
t́m ông Từ.
Sau một
hồi
lâu dạo
quanh khu sân sau nhà thờ,
anh mới
thấy
ông Từ
một
ḿnh đang
gục
đầu
cầu
nguyện
trước
ảnh
Thánh Tâm Chúa Giêsu. Anh tài xế
đánh
thức
ông Từ
rồi
đưa
ông lên xe.
Về
đến
trung tâm, mọi
người
cho biết
là hôm nay sẽ
có những
người
trẻ
ở
nhà thờ
đến
hát giúp vui, mừng
lễ
Phục
Sinh như
năm
ngoái. Ông Từ
hớn
hở
đợi
chờ.
Rồi
cả
đoàn
người
bước
vô. Ông cố
nh́n mặt
từng
người
một
để
t́m xem có cậu
bé Việt
không. Nhưng
luống
công vô ích. Cả
đoàn
người
lần
lượt
bước
vào hết
mà ông Từ
vẫn
không thấy
cậu
bé đâu
cả.
Ông tiu nghỉu
thất
vọng,
định
bụng
sẽ
kéo xe lại
một
góc pḥng nghe nhạc.
Nhưng
bỗng có
tiếng
của
một
đứa
trẻ
vang lên:
- Ông!
Ông Từ
giật
ḿnh quay lại,
nhận
ra đó
là cậu
bé vẫn
thường
đến
thăm
ông khi trước.
Thấy
ông, Việt
vụt
khỏi
tay mẹ,
chạy
ù đến
bên âu ếm.
Ông Từ
mừng
vui khôn xiết,
dang rộng
hai cánh tay ra ôm chầm
lấy
cậu
bé. Hai
ḍng nước
mắt
trào ra vui sướng.
Vừa
lúc có tiếng
nhạc
nổi
lên. Ông Từ
gật
gù hát lên khe khẽ:
Nào ta hăy mừng
vui!
Chúa chiến
thắng
tử
thần
rồi.
Ngài chiếu
ánh sáng khắp
địa
cầu.
Alleluia!
|