Trang chính
Bao
DH
2007
2007-02 |
|
. |
|
Mắt Thấy Tai Nghe
Giới Thiệu Sách
"Eyes to See, Ears to Hear"
|
|
|
|
|
|
|
S J V N |
|
|
|
|
|
GIỚI THIỆU SÁCH “EYES TO SEE, EARS TO HEAR”
Linh Thao và Linh đạo I-nhă được giới thiệu với người tín hữu Việt Nam
kể từ thập niên 1970 ở trong nước lẫn ở nước ngoài. Trong những năm
gần đây có nhiều anh chị em: linh mục, tu sĩ và giáo dân ước ao được
học hỏi sâu hơn về thánh I-nhă Loyola và linh đạo của ngài. Để đáp
ứng nguyện vọng đó, chúng tôi, một nhóm anh chị em giáo dân và tu sĩ
Ḍng Tên, đă cố gắng chuyển dịch sang Việt ngữ tác phẩm Eyes to See,
Ears to Hears của David Lonsdale, giảng viên bộ môn linh đạo Kitô giáo
tại Heythrop College, University of London. Đây là một quyển sách căn
bản về linh đạo I-nhă ngày nay. Nhưng sách này đă được viết trong
khung cảnh tôn giáo và thần học tây phưong đương đại. Đó là khung
cảnh đại kết, đa tôn giáo, và nhạy cảm với hai nền thần học đang thịnh
hành: thần học nữ quyền và thần học giải phóng. Bầu khí thần học này
có thể c̣n xa lạ với độc giả Việt Nam. V́ thế đôi khi chúng ta cảm
thấy khó hiểu trước lối phân tích và lập luận của tác giả. Ngoài ra,
chúng tôi mong quư độc giả thứ lỗi cho những vụng về trong lúc chuyển
dịch.
Ad Majorem Dei Gloriam -- Phục Sinh 2007
|
|
|
|
|
|
|
|
|
DẪN NHẬP
Vào thập niên 1960, nền linh đạo
I-nhă đă t́m lại được sinh khí và phát triển theo chiều hướng mới.
Người ta bắt đầu nghiên cứu về nguồn gốc của nền linh đạo này, đặc
biệt từ các bản văn gốc và quan trọng nhất. Tuy đã được bắt đầu từ
trước Công đồng Vatican II, nhưng các cuộc nghiên cứu này đă thực sự
nhận được một động lực mới từ Công đồng, dẫn đến một cuộc cách mạng
trong cách hiểu các yếu tố của linh đạo I-nhă, và chủ yếu là của Linh
Thao. Người ta từ từ thấy rơ là một số yếu tố chủ chốt trong “cách
thức hành xử” của thánh I-nhă (Ignatius Loyola) đă bị lăng quên hay
thất lạc ngay sau khi ngài qua đời năm 1556. Các nghiên cứu mới đă
giúp khám phá lại vị trí trọng tâm của việc nhận định thần loại trong
đời sống tâm linh của I-nhă và các Giêsu hữu (tu sĩ Ḍng Tên) tiên
khởi. Khám phá này đánh dấu sự khởi đầu của một bước ngoặc, cả trong
suy nghĩ về linh đạo I-nhă, lẫn trong cách “cho” (huớng dẫn) và “làm”
(tham dự) Linh Thao. Trước đây, trong một thời gian dài Linh Thao đă
được tŕnh bày dưới dạng các khoá tĩnh tâm có giảng thuyết. Trong các
khoá tĩnh tâm loại này, người hướng dẫn tĩnh tâm đă biến các chủ đề,
các điểm suy gẫm và chiêm niệm của Linh Thao trở thành đề tài nói
chuyện và giảng dạy cho các nhóm người tham dự. (Cuốn sách A
Portrait of the Artist as a Young Man của James Joyce cho một ví
dụ về cách thức mà một nhà giảng thuyết giàu óc tưởng tượng đă nhào
nắn lại bài suy niệm về hỏa ngục của I-nhă như thế nào). Các bài
giảng này cung cấp chất liệu cho những người dự tĩnh tâm suy niệm.
Tuy nhiên, vào thập niên 1950 và 1960, khi bắt đầu làm việc với những
nguồn tư liệu lịch sử, trong đó ghi lại cuộc đời và thời đại của I-nhă
cùng với việc thành lập Ḍng Chúa Giêsu (Ḍng Tên)[i],
các học giả bắt đầu ư thức đầy đủ hơn sự kiện I-nhă đă hướng dẫn Linh
Thao chủ yếu cho từng cá nhân. Phương thức này đòi hỏi sự gặp gỡ
đều đặn giữa người hướng dẫn và người làm Linh Thao.
Trong những cuộc gặp gỡ ấy, người
làm Linh Thao tŕnh bày điều họ đă cảm nghiệm từ lần gặp trước, nhất
là về những kinh nghiệm trong các giờ suy gẫm và chiêm niệm. Khi ấy
người hướng dẫn Linh Thao giúp họ hiểu và giải thích kinh nghiệm của
họ. Vào cuối buổi gặp gỡ, người hướng dẫn sẽ đề nghị các đề tài mới
để họ tiếp tục suy gẫm và chiêm niệm. Mục đích của các cuộc chia sẻ
này là để người hướng dẫn giúp người làm Linh Thao dùng chính cảm
nghiệm của ḿnh như một phương thức thực hiện các sự chọn lựa khôn
ngoan và bác ái trong tinh thần tự do của Kitô hữu. Từ đó, những chọn
lựa này thực sự phản ảnh ước muốn sống “để ca ngợi và tôn vinh Thiên
Chúa hơn” (một câu được I-nhă yêu thích). Cách hướng dẫn và làm Linh
Thao kiểu này cũng như các h́nh thức tĩnh tâm “có hướng dẫn cá nhân”
khác đă trở nên phổ biến, ít ra là trong các nước nói tiếng Anh hiện
nay, đến độ chúng ta thật khó mà h́nh dung được tính cách mới mẻ và
thích thú mà việc tái khám phá này đă đem lại vào bốn mươi năm trước
đây. Bằng nhiều cách, nó đă đảo ngược một truyền thống đă có hàng
trăm năm nay trong phương pháp thực hành Linh Thao.
|
|
|
|
|
|
|
|
|
CÁC DIỄN TIẾN GẦN ĐÂY
Từ thập niên 1990, cả bên trong lẫn
bên ngoài các giáo hội Kitô, người ta đă chứng kiến một sự gia tăng
đáng kể về linh đạo cá nhân, về các h́nh thức tĩnh tâm đủ loại, và
các hình thức cầu nguyện theo phương pháp suy gẫm và chiêm niệm.
V́ thế, chẳng có ǵ phải ngạc nhiên khi các cuộc tĩnh tâm theo kiểu
I-nhă, dù trong khung cảnh tĩnh tâm biệt lập hay “giữa đời thường”, đă
rất được ưa chuộng. Các h́nh thức tĩnh tâm và linh thao khác nhau dựa
trên nền tảng I-nhă cũng đã gia tăng đáng kể. Đặc biệt trong phương
diện thực hành, số người quan tâm và tham dự vào linh đạo I-nhă thuộc
các truyền thống Kitô giáo khác nhau giờ đây đã tăng lên chưa từng
thấy. Trong các giáo hội và cộng đoàn này, đường lối tu đức kiểu
I-nhă cũng cuốn hút một số đông Kitô hữu. Những người này vừa
tham dự các cuộc tĩnh tâm kiểu I-nhă, vừa đóng vai tṛ hướng dẫn
thiêng liêng cho người khác. Hơn nữa, càng ngày càng có thêm sự đóng
góp của nữ giới trong các hoạt động gắn liền với linh đạo I-nhă: họ là
các học giả, thần học gia, văn sĩ và giáo viên. Trong việc giảng tĩnh
tâm, hướng dẫn các “tuần cầu nguyện có hướng dẫn” và hướng dẫn Linh
Thao, những phụ nữ này đóng vai tṛ linh hướng, làm thành viên hoặc
đứng đầu các ban huấn luyện về linh đạo I-nhă và linh hướng. Các khóa
huấn luyện cho người linh hướng và cho người hướng dẫn về cầu nguyện
cũng như nhiều h́nh thức tác vụ khác dựa trên giáo huấn và thực hành
của I-nhă đang đua nở. Việc thực hành nhận định theo phương pháp
I-nhă như một cách để Kitô hữu làm quyết định trong những thời điểm
quan trọng cũng như trong đời sống thường ngày, được nhiều người quan
tâm rộng răi. Thêm vào đó, trong các khóa học và hội thảo, linh đạo
I-nhă được liên kết với các môn học và các sở thích khác: thí dụ như
những ngành học về môi trường, vấn đề phái tính, phong trào Thời Đại
Mới, về cơ thể, hội họa, nặn đồ gốm, báo chí, tâm lư học và tư vấn,
đối thoại với các tôn giáo khác, v.v. Các lớp học về linh đạo I-nhă
đă trở thành một phần của các chương tŕnh đại học. Tất cả các hiện
tượng trên hiển nhiên đều lành mạnh và được tiếp nhận. Đồng thời,
xét như một hiện tượng trong lịch sử phát triển của linh đạo I-nhă,
các thay đổi này đem lại một số đặc tính hoàn toàn mới mẻ, và v́ thế
chúng càng làm nổi bật thêm các vấn đề quan trọng đáng lưu ư.
Một trong những đặc tính của trào
lưu này là sự thay đổi đáng kể trong tầm vóc và thành phần của nhóm
được gọi là “những người có thẩm quyền chú giải và thực hành” linh
đạo I-nhă. Trong kư ức sống động của nhiều người lớn tuổi, đã có
một thời linh đạo I-nhă hoàn toàn là sở hữu của Ḍng Tên, một ḍng
tu nam trong Giáo hội Công giáo La mă. Họ là những người duy nhất và
có thẩm quyền giải thích về I-nhă, cũng như quảng bá về con đường môn
đệ Kitô này. Các tu sĩ Ḍng Tên đă đưa ra những nguyên tắc chính yếu
cho linh đạo I-nhă và việc giải thích nền linh đạo này. Các cộng đoàn
nam nữ tu sĩ khác mà hiến luật và lối sống của họ dựa trên nền tảng
I-nhă, hầu hết đều t́m đến các tu sĩ Ḍng Tên để được hướng dẫn trong
việc sống theo tinh thần I-nhă. Họ là học tṛ, c̣n các tu sĩ Ḍng Tên
là thầy dạy. Các thành viên kỳ cựu trong các ḍng tu đó sẽ nói với
bạn: “Chúng tôi luôn mời một tu sĩ Ḍng Tên hướng dẫn các kỳ tĩnh tâm
hàng năm”. Tương tự, nhiều giáo dân đă được các tu sĩ Ḍng Tên ở địa
phương hoặc từ nơi khác đến huấn luyện về linh đạo I-nhă tại rất
nhiều giáo xứ, trường học, đại học, nhà tĩnh tâm và hiệp hội, qua các
buổi nói chuyện, giảng thuyết, các cuộc tĩnh tâm, lớp học và các thừa
tác vụ khác. Ngoài ra, sách Linh Thao và các bản văn nền tảng
khác của linh đạo I-nhă không dễ ǵ có sẵn nơi công cộng v́ các tu sĩ
Ḍng Tên kiểm soát việc xuất bản và thường qua các nhà in riêng.
Hiện nay, tất cả đă thay đổi. Tuy
cộng đoàn những người chú giải và thực hành linh đạo I-nhă vẫn bao gồm
các tu sĩ Ḍng Tên, nhưng c̣n có thêm nhiều thành phần khác thuộc đủ
mọi lứa tuổi, hoàn cảnh, gốc gác, truyền thống đức tin, thần học, quan
điểm và đặc sủng trong giáo hội. Mặc dù các tu sĩ Ḍng Tên vẫn c̣n
đóng một vai tṛ hướng dẫn nào đó, nhưng các thành viên của một cộng
đoàn I-nhă lớn hơn bao gồm cả nam lẫn nữ, giáo sĩ và giáo dân, ngày
càng đóng một vai tṛ tích cực và b́nh đẳng hơn. Họ chia sẻ một trách
nhiệm lớn hơn trong việc chú giải và quảng bá linh đạo I-nhă. Ngoài
ra, các bản văn căn bản và quan trọng nhất của linh đạo I-nhă hiện nay
đă được các nhà xuất bản thương mại phát hành. Ít ra về mặt lư
thuyết, ai cũng có thể mua các ấn phẩm này ở trạm xe điện cũng như tại
phi trường.[ii] Các thay đổi này thật sự mang lại
lợi ích cho nhiều người và nhiều nhóm khác nhau. Chúng không chỉ làm
phong phú thêm truyền thống linh đạo I-nhă, mà c̣n đóng góp một phần
không nhỏ vào việc nuôi dưỡng, canh tân cuộc sống và hoạt động của mỗi
cá nhân và các giáo hội Kitô ở nhiều quốc gia. Bởi v́ linh đạo I-nhă
nhấn mạnh đến sứ mạng, nên ảnh hưởng của những sự canh tân này đă vượt
ra khỏi giới hạn của các giáo hội ấy để đi vào đời sống xă hội, chính
trị và văn hóa trên toàn thế giới.
|
|
|
|
|
|
|
|
|
CÁC VẤN ĐỀ TRONG VIỆC
CHÚ
GIẢI
Khi viết cuốn sách này 10 năm trước
đây, tôi có ư tŕnh bày một cách hiểu mới về linh đạo I-nhă bằng việc
thực hiện hai điều sau. Thứ nhất, tôi soạn thảo sách này dựa trên
kết quả của các biên khảo mà tôi cho là tốt nhất hiện nay: đó là
những biên khảo về truyền thống I-nhă và các vị sáng lập nên truyền
thống đó, về các sự kiện và bản văn liên quan. Thứ hai, khi soạn cuốn
sách này tôi đă liên kết những tài liệu ấy với các nhu cầu, các mối
quan tâm, vấn đề và lối suy nghĩ cùng hành động của thời đại chúng
ta. Tôi đă cố gắng liên kết giữa một bên là đời sống của I-nhă và
các bạn đồng hành đầu tiên, thần học của ngài, “cung cách hành xử”,
các thành tựu và di sản của ngài bao gồm cả Ḍng Tên và Linh Thao, với
bên kia là đời sống Kitô hữu hôm nay. Điều này đă đưa tôi vào tiến
tŕnh chú giải lại không những truyền thống sống động ấy, mà cả những
nền tảng lịch sử của truyền thống ấy, qua góc nh́n của chính tôi và
kinh nghiệm hiện nay của những nhà chuyên môn khác nữa. Mười năm đă
trôi qua, bây giờ tôi cảm thấy cần phải nghiền ngẫm lại những ǵ liên
quan đến việc chú giải ấy.
Việc này quan trọng v́ một số lư
do. Trước hết, trách nhiệm giải thích truyền thống I-nhă chủ yếu
thuộc về các thành viên của cộng đoàn những người thông hiểu, thực
hành, và truyền đạt nền linh đạo này cho người khác tùy theo đặc sủng
và hoàn cảnh của họ. Khi tham gia vào việc hướng dẫn Linh Thao và các
h́nh thức hướng dẫn thiêng liêng khác, các thành viên của cộng đoàn
này đều có các mức độ kinh nghiệm khác nhau về linh đạo I-nhă, cũng
như các tŕnh độ huấn luyện và chuyên môn trong việc linh hướng kiểu
I-nhă. V́ thế, điều cực kỳ quan trọng là cần làm sáng tỏ những ǵ
liên quan đến tiến tŕnh hiểu biết và tiếp thu truyền thống linh đạo
I-nhă cũng như việc vận dụng thật tốt các bài Linh Thao.
Thứ đến, so với thời trước đây, các
thành viên làm nên cộng đoàn này hiện nay rất đa dạng về kinh
nghiệm, quan điểm, thần học, vị trí trong Giáo hội và văn hóa. Linh
đạo I-nhă đă vượt qua các biên giới văn hóa và tôn giáo. Đă qua rồi
cái thời mà những người có tâm huyết đối với linh đạo I-nhă được coi
là có cùng một sự hiểu biết tương đối đồng nhất về thần học và về kinh
nghiệm làm giáo hữu. V́ có sự đa dạng này và thực tế là cách chúng
ta giải thích, tiếp thu, và sống một truyền thống linh đạo luôn bị chi
phối bởi hoàn cảnh, kinh nghiệm và quan điểm của mỗi người, nên theo
tôi, điều quan trọng là chúng ta nhận định về những ǵ có liên hệ đến
tiến tŕnh chú giải này. Điều đó không có nghĩa là tôi đang t́m kiếm
một thứ “huấn quyền” mới trong linh đạo I-nhă để xác chuẩn một số cách
chú giải là đúng đắn, và một số là sai lạc. Đúng hơn, tôi muốn nói
rằng cách chú giải đích thực sẽ xuất phát từ các cuộc trao đổi giữa
các thành viên của cộng đoàn các nhà chú giải và thực hành, giữa
họ với nhau và giữa họ với những người ngoài nhóm. Việc chú giải
một truyền thống linh đạo trong mối tương quan với kinh nghiệm sống
hôm nay là một cách tái khám phá sự phong phú và sức mạnh của nền linh
đạo đó để mang lại sức sống cho nó. Sự đa dạng về quan điểm và kinh
nghiệm của những người đón nhận linh đạo I-nhă, áp dụng và hướng dẫn
những người khác trong nền linh đạo nầy đă cho thấy di sản I-nhă có
năng lực làm phong phú đời sống.
Thứ ba, nên nhớ rằng I-nhă đă coi
ḿnh chỉ là một công cụ trong bàn tay Thiên Chúa. Linh đạo I-nhă nhằm
phục vụ Tin Mừng và Nước Thiên Chúa, nó là một phương tiện để Lời Chúa
trở nên sống động và nhập thể. V́ thế, các cách chú giải và t́m hiểu
Lời Chúa từ nhiều góc độ có thể giúp minh họa một lần nữa sự phong phú
và năng lực bất tận của Tin Mừng trong việc làm phong phú và biến đổi
cuộc sống con người, trên b́nh diện rộng lớn bao gồm những truyền
thống tâm linh đa dạng, trong những hoàn cảnh, thời gian và không
gian rất khác biệt.
Việc chú giải một truyền thống linh
đạo và những nền tảng lịch sử của nó có nhiều cạm bẫy mà ở đây tôi
muốn nêu ra hai loại. Điểm chung của những cạm bẫy này là, bằng nhiều
cách khác nhau chúng đă không lưu ư đủ đến sự phức tạp của việc chú
giải và nó chứa đựng nhiều vấn đề cần phải bàn thảo.[iii] Tôi nhắc đến các khó khăn ấy ở
đây, v́ tôi quan tâm đến các hệ luận của chúng. Các phương pháp chú
giải thiếu cân xứng về một truyền thống linh đạo và việc áp dụng
chúng vào thực hành có nguy cơ gây ra những tác hại nghiêm trọng trong
mục vụ và linh hướng.
Cạm bẫy thứ nhất là “coi linh đạo
I-nhă như thần dược”, v́ trong đó người ta giải thích một truyền thống
mà hầu như chẳng để ư ǵ đến bối cảnh và lịch sử nguyên thủy của nó,
nhưng chỉ chú tâm vào những ǵ mang lại ư nghĩa “cho chúng ta” hôm
nay. Điều này có thể dẫn đến việc chỉ thu thập từ một di sản những
yếu tố xem ra đáp ứng được cho nhu cầu và những câu hỏi của một
người hoặc một nhóm. Trong linh đạo I-nhă chẳng hạn, tôi có thể cho
thao viên (người tĩnh tâm) các bài cầu nguyện Linh Thao mà không hề
xét đến khung cảnh và mục đích ban đầu của bản văn, hoặc loại tài liệu
ấy là ǵ. Các nguy hiểm của cách giải thích này khá rơ ràng. Nó có
nguy cơ trở nên một thứ chạy theo sở thích hoặc nhu cầu cá nhân không
hơn không kém. Nếu tôi không chú ư đủ đến ư định của I-nhă và bối
cảnh mà các bài Linh Thao được soạn, th́ ý nghĩa của mỗi chữ hoặc
mỗi phân đoạn của các bài thao luyện dễ trở nên tối nghĩa, tiến tŕnh
chung của Linh Thao có thể bị lạc đường, và hiệu quả bị giảm thiểu
đáng kể. Mặc dù tôi có thể cho rằng những bài thao luyện này là Linh
Thao, nhưng thực ra chúng không phải là thế, mà kết quả c̣n đem đến
tác hại cho thao viên. Đồng ư là I-nhă muốn rằng Linh Thao cần được
thích ứng cho từng người, từng nhu cầu và hoàn cảnh khác nhau. Tuy
vậy, một lối chú giải và sử dụng đúng đắn các bài thao luyện cũng
cần phải lưu ư đến các ư định của I-nhă, và ư nghĩa của những ǵ ngài
đă viết ra trong một bối cảnh nhất định. Cách chú giải phóng khoáng
nói trên không làm được điều ấy. Có một sự khác biệt lớn giữa một bên
là vở nhạc kịch Hamlet trong đó từ bản văn đến những ǵ ta biết
được về bối cảnh nguyên thủy của câu chuyện và ư định của Shakespeare
khi viết ra chúng đều được lưu ư cẩn thận, c̣n bên kia là một vài
trích đoạn được biên tập lại và thay đổi theo ngẫu hứng nhất thời của
một đạo diễn hay diễn viên nào đó. Kết quả của sự cải biên này có thể
mang tính sáng tạo hoặc không, nhưng ta khó có thể chấp nhận đó chính
là vở kịch Hamlet.
Một cạm bẫy khác là chấp nhận một
cách chú giải hoàn toàn theo sát từng chữ, và bắt chước giống hệt với
I-nhă. Có nhiều lư do khác nhau đưa đến lập trường này. Chẳng hạn,
nó có thể dựa trên một giả định (theo tôi là sai lầm) cho rằng, dù
người ấy ư thức hay không, việc trung thành với truyền thống trong
việc hướng dẫn Linh Thao là phải theo sát bản văn của I-nhă từng chữ
một và bắt chước giống hệt như lối thực hành của ngài càng nhiều càng
tốt. Một lư do khác của lập trường này có thể đến từ thái độ thiếu tự
tin và lo lắng. Như tôi đă nói đến trên kia, có một sự khác biệt lớn
về tŕnh độ hiểu biết, kinh nghiệm, học vấn và chuyên môn giữa những
người ngày nay đang tham gia vào việc hướng dẫn người khác trong linh
đạo I-nhă. Một số chưa có cơ hội làm Linh Thao trọn vẹn. Nhiều người
đă làm Linh Thao th́ lại không học hỏi và nghiên cứu kỹ càng các văn
bản nền tảng trong tương quan với bối cảnh chúng được h́nh thành. Một
số người c̣n xa lạ với nền thần học hiện đại. Có thể hiểu được rằng,
v́ thiếu xác tín và lo ngại, họ sẽ t́m kiếm sự an toàn bằng việc theo
thật sát các bản văn gốc. Họ dựa trên căn bản là, ít ra nếu họ làm
đúng từng chữ từng câu I-nhă đă nói trong bản văn, họ sẽ không bị sai
lầm quá nhiều, hoặc đem đến tai hại quá lớn.
Khó khăn chủ yếu của phương pháp chú
giải bám sát theo từ ngữ là chúng bỏ qua nhiều nhân tố quan trọng, mà
ít nhất theo tôi thấy, là phần cốt yếu của một lối chú giải đáng tin
cậy. Những người theo phương pháp này đă quên mất một điều, sách
Linh Thao và các bản văn khác đă được h́nh thành trong những hoàn
cảnh cá nhân, xă hội, văn hóa và giáo hội mà chúng được sáng tác, và
cần được hiểu trong những bối cảnh ấy. Họ cũng không nhận thức được
rằng, năo trạng, văn hóa, thần học, niềm tin, hoàn cảnh sống, các vấn
nạn và nhu cầu của người làm Linh Thao hôm nay rất khác với người của
bốn thế kỷ trước. Hậu quả là, việc sử dụng theo sát từng câu, từng
chữ của bản văn Linh Thao thật khó mà thích hợp cho những người làm
Linh Thao ngày nay, lại càng không chắc rằng chúng đáp ứng được nhu
cầu thật của họ. Thần học của Linh Thao thuộc về thế kỷ thứ mười
sáu, nếu dùng một cách thiếu suy xét có thể biến thành một kinh
nghiệm áp đặt và tai hại cho con người ngày nay. Điều đó đi ngược
lại ư muốn của I-nhă.
|
|
|
|
|
|
|
|
|
CÁCH CHÚ GIẢI TỐT: VÀI LƯU Ư VÀ MỘT PHƯƠNG PHÁP
Cách chú giải được bàn luận ở đây
là một cách thức trong đó chúng ta cố gắng t́m hiểu, tiếp thu và sử
dụng một truyền thống linh đạo sống động luôn khai mở, và những sự
kiện, con người, cùng những chọn lựa và hành động của họ, từ đó mà
truyền thống này được nảy sinh. Loại chú giải này dựa vào sự thông
hiểu các bản văn quan trọng nhất, chúng cho ta biết về các nguồn gốc
của truyền thống. Tuy nhiên, đây không phải là một lối chú giải thuần
túy mang tính cách lịch sử. Mục đích của việc chú giải không đơn
thuần là để hiểu quá khứ, nhưng là để tiếp thu từ truyền thống này khả
năng củng cố đời sống trong Thần Khí ngày hôm nay. V́ vậy, lối chú
giải này tìm kiếm sự thống nhất nhiều yếu tố khác biệt nhưng có liên
hệ với nhau: nhu cầu và vấn đề của những người muốn tiếp thu và thực
hành linh đạo I-nhă hiện nay, truyền thống sống động khởi đi từ I-nhă,
và một sự ghi nhận công bằng và có hiểu biết về những con người, biến
cố và bản văn của thế kỷ thứ mười sáu, tiềm tàng nơi nguồn gốc của
truyền thống đó. Lối chú giải này đ̣i phải có một chuyển động ṿng
tṛn hay h́nh xoắn ốc bao gồm nhiều bước riêng biệt nhưng có liên hệ
chặt chẽ với nhau.
Một lối chú giải tốt đặt ra cho
chúng ta nhiều điều kiện. Đầu tiên, nó buộc chúng ta thừa nhận rằng
các bối cảnh cá nhân, thần học, xă hội, văn hóa và giáo hội của châu
Âu vào thế kỷ thứ mười sáu rất khác với bối cảnh của chúng ta hôm nay
về nhiều phương diện. Nó cũng mời gọi chúng ta lưu tâm đến sự kiện là
các bối cảnh ấy, cùng với ư định của các tác giả, đă h́nh thành các
bản văn nền tảng khác. Thêm vào đó, v́ việc hiểu biết hoàn cảnh sáng
tác của các bản văn này giúp soi sáng ư nghĩa của chúng, nên chúng ta
cũng cần đọc các bản văn này trong mối liên hệ với bối cảnh con người,
xă hội, văn hóa và giáo hội thời đó, để giúp chúng ta hiểu chúng. Các
hoàn cảnh này có thể được xem như một chuỗi các ṿng tṛn đồng tâm
ngày một lớn hơn, mà trung tâm điểm là bản văn và tác giả. Chẳng hạn,
các ṿng tṛn đồng tâm này bao gồm hoàn cảnh sống của I-nhă và các
Giêsu hữu đầu tiên; sự phát triển của Ḍng Tên trong thời I-nhă c̣n
sống và tiếp sau đó; hoàn cảnh xă hội, chính trị và giáo hội phổ biến
thời đó. Dĩ nhiên, ta cũng có thể có được một thứ hiểu biết trực giác
về “tâm ư của I-nhă”. Dù vậy, trực giác này cần được làm phong phú và
minh định thêm bằng cách nêu lên vài câu hỏi lịch sử. Hoàn cảnh đời
sống cá nhân của I-nhă ra sao mà đă nảy sinh và ảnh hưởng đến việc
viết ra những tài liệu này? Chúng được viết để đáp ứng lại những
điều kiện nào? Ý định của các tác giả thời ấy là gì? Các
nhân tố nào tại Roma, trong Ḍng Tên non trẻ, trong châu Âu thời ấy
hoặc trong Giáo hội đă ảnh hưởng đến việc h́nh thành các bản văn này
và ấn bản đầu tiên của Linh Thao? Ảnh hưởng như thế nào? Bằng cách
nào các nhân tố khác nhau ấy giúp chúng ta giải thích I-nhă, giúp
chúng ta sống đời Kitô hữu ngày nay trong truyền thống I-nhă, cùng
giúp chúng ta hướng dẫn và thực hành Linh Thao với một cách thức vừa
trung thành với quá khứ, vừa đáp ứng sáng tạo với nhu cầu hiện tại?
Càng đối diện với các câu hỏi này, chúng ta càng có cơ may giải thích
các bản văn, sự kiện và con người đúng đắn hơn. V́ thế, một cách chú
giải lành mạnh đ̣i hỏi chúng ta cân nhắc kỹ càng về ư nghĩa của các từ
ngữ mà tác giả sử dụng trong ngữ cảnh của chúng. Thí dụ, trong các
bản văn I-nhă, các từ “thiêng liêng”, “bài tập”, “suy niệm”, “chiêm
niệm”, “nghèo khó”, “giáo hội”, “các thần”, “an ủi”, “sầu khổ”, tất cả
đều có những ư nghĩa đặc thù trong các ngữ cảnh nhất định. Chúng ta
có thể hoặc không thể t́m ra chính xác ư nghĩa của chúng là ǵ, và
những từ ngữ ấy ngày nay có thể không c̣n mang cùng ư nghĩa như trước
nữa. Dù vậy, nếu chúng ta phải dùng các bài Linh Thao chẳng hạn,
chúng ta cần phải biết trong mức độ có thể được, ư nghĩa của những
từ ngữ ấy đối với tác giả và những người đồng thời với ngài.
Kế đến, việc chú giải đ̣i chúng ta
thừa nhận rằng chúng ta là một phần của truyền thống I-nhă sống động
và khai mở đó, một truyền thống đă không ngừng suy tư về di sản của
I-nhă và t́m cách thích ứng với hoàn cảnh lịch sử và địa lư luôn thay
đổi trong bốn trăm năm mươi năm qua. Bởi vậy, việc chúng ta giải
thích các nhân vật, sự kiện và bản văn gốc, cần phải có sự đối thoại
với các nhà chú giải có uy tín trong quá khứ cũng như hiện nay, và
lắng nghe những ǵ họ nói.
Thứ ba, như đă thấy, loại chú giải
đang nói ở đây đ̣i hỏi chúng ta phải thích nghi một truyền thống
thiêng liêng và các căn nguyên xuất phát của nó trong bối cảnh ngày
hôm nay, tức là trong quan hệ với những mối quan tâm, giả định, nhu
cầu, những băn khoăn thao thức của con người ngày nay và trong khung
cảnh xă hội, văn hóa và giáo hội hiện tại. Điều này giả thiết rằng,
trong tư cách những người chú giải, chúng ta cần biết và suy tư nghiêm
túc về việc “chúng ta đến từ đâu”: các yếu tố và điều kiện h́nh thành
quan điểm của chúng ta; những nhu cầu, câu hỏi và khả năng t́m hiểu mà
chúng ta đặt ra để giải quyết; các giới hạn, khuynh hướng, thành kiến
và sai lệch có thể có do quan điểm riêng của ta. Nói chung, những
người giải thích một truyền thống thiêng liêng nếu càng ư thức và suy
tư kỹ lưỡng về hoàn cảnh, quan điểm và những điều kiện đă h́nh thành
nên truyền thống đó, th́ càng có thể hiểu và thích nghi một truyền
thống thiêng liêng một cách thận trọng và hữu ích, để củng cố đời sống
trong Thần Khí ngày hôm nay một cách sáng tạo.
Khi tôi viết cuốn sách này mười năm
trước đây, tôi đă cố gắng đưa cách tiếp cận này vào việc giải thích
truyền thống linh đạo sống động của I-nhă. Mức độ thành công thế nào,
độc giả sẽ phán xét. Tôi đă diễn tả nó trên đây như một chuyển động
h́nh xoắn ốc. Mỗi bước trong đó dẫn đến một bước khác, theo một kiểu
mẫu ṿng tṛn, nhưng chuyển động không mang chúng ta đến cùng một vị
trí trước đây. Thay v́ vậy, mỗi bước trong tiến tŕnh t́m hiểu và suy
tư dẫn đến một sự hiểu biết và tiếp thu đầy đủ hơn. Tuy vậy, nếu tôi
viết cuốn sách này bây giờ, tôi sẽ muốn thay đổi một vài điểm. Chẳng
hạn, tôi muốn có một thái độ phê b́nh hơn đối với các nguồn văn. Tôi
cũng muốn t́m hiểu và giải thích con người I-nhă đầy đủ và rơ ràng hơn
bằng cách t́m hiểu bối cảnh xă hội, văn hóa và giáo hội rộng lớn hơn
trong mười sáu năm cuối của đời ngài. Và tương tự, tôi cũng muốn đọc
lại sách Linh Thao trong một bối cảnh rộng hơn. Tuy nhiên,
cuốn sách này chỉ là một dẫn nhập vào linh đạo I-nhă, và may mắn thay,
kể từ lần xuất bản đầu tiên, nhiều người khác đă đưa ra những nghiên
cứu tuyệt hảo có thể giúp độc giả có một hiểu biết sâu sắc và hoàn
chỉnh hơn về chủ đề này.
|
|
|
|
|
|
|
|
|
CÁC NGUỒN VĂN I-NHĂ
Trong cuốn sách này, tôi đă sử dụng
một số tài liệu khác từ thời I-nhă và các cộng sự của ngài. Đây là
các tài liệu rất giá trị, v́ chúng cung cấp cho chúng ta nhiều hiểu
biết mới về I-nhă trong bối cảnh thời đại của ngài. Nhưng điều quan
trọng không kém là nhận ra các giới hạn và vấn đề của chúng trong việc
chú giải. Về các bản văn mà chúng tôi có, sau đây là một số bản phổ
biến nhất đă có bằng tiếng Anh.
Tự thuật[iv].
Bản văn này (đúng hơn nên gọi là Hồi kư của I-nhă) thực ra
không được chính tay I-nhă viết. Đây là tŕnh thuật dựa trên một cuộc
phỏng vấn kéo dài với I-nhă, xảy ra độ ba hay bốn lần cách xa nhau,
theo đó ngài đă đồng ư đáp ứng một yêu cầu được lặp đi lặp lại
nhiều lần của các Giêsu hữu sống cùng với ngài ở Roma. Có một vài bí
ẩn quanh tài liệu này và hoàn cảnh sáng tác của nó. Gonçalves Da
Câmara, người được I-nhă ủy thác viết lại câu chuyện của ḿnh, là một
người hết ḷng tôn sùng I-nhă và ông rất thích hợp để làm nhiệm vụ
này, v́ theo các người đương thời, ông có trí nhớ rất tốt. Nhưng
chúng ta không biết, chẳng hạn, điều ǵ đă khiến I-nhă cuối cùng cũng
đồng ư kể lại câu chuyện của ḿnh sau rất nhiều lần do dự và tŕ
hoăn. Chúng ta cũng không biết chắc đâu là những lời của chính I-nhă,
và bao nhiêu là phần tóm tắt hay biên soạn lại của tác giả về những ǵ
I-nhă nói. Có vẻ như là Da Câmara đă không ghi chép trong khi phỏng
vấn I-nhă, mà chỉ viết lại sau đó những ǵ ông nhớ được từ các cuộc
tṛ chuyện với I-nhă, và đă đọc lại cho một thư kư chép. Hơn nữa,
cuốn Tự thuật không kể lại toàn bộ câu chuyện. Mặc dù chúng ta
biết rằng I-nhă đă thuật lại đời ngài từ những ngày đầu tiên, tài liệu
chúng ta có lại bắt đầu với những kinh nghiệm ở Pamplona, và hầu như
không nói ǵ về mười sáu năm cuối đời của I-nhă, là những năm quan
trọng trong việc thành lập Ḍng Tên. Tất cả những điều này hẳn đặt
ra một số câu hỏi cho một người giải thích linh đạo I-nhă. Chẳng
hạn, những câu hỏi về ư định của những người cộng tác với nhau khi
biên tập tài liệu này, về độ chính xác thông tin mà nó chứa đựng, về
nguyên nhân nó nhấn mạnh đến những khoảng thời gian nhất định trong
tŕnh thuật của I-nhă, trong khi bỏ qua những giai đoạn khác, và lư do
của việc loại bỏ đó. Tŕnh thuật của I-nhă về các kinh nghiệm thần
bí của ngài trong tài liệu này cũng đưa ra những vấn đề về chú giải,
như các hiện tượng khác cùng loại.
Những lá thư[v].
I-nhă là một người chịu khó viết thư. Người ta c̣n giữ được khoảng
7000 lá thư của ngài. Có nhiều bộ sưu tập bằng tiếng Anh, với một số
trùng lắp giữa chúng. Đọc các lá thư của I-nhă, chúng ta phải nhớ
rằng từ năm 1547 trở đi, ngài đă sử dụng một loạt thư kư khác nhau, và
người cuối cùng là Juan Polanco. Không phải lúc nào chúng ta cũng có
thể biết được ḿnh đang xem những ḍng chữ chính tay I-nhă viết, hay
lá thư được thư kư viết lại từ một bản nháp, ghi chép hoặc chỉ dẫn
được chính I-nhă đưa cho ông.
Những bài Linh Thao[vi].
Ở đây nữa, cũng có những vấn đề. I-nhă đă làm việc với bản văn
Những bài Linh Thao trong nhiều năm, sửa chữa và viết lại
các phần khác nhau. Có đến ba bản văn “chính thức”, một bản bằng tiếng
Tây Ban Nha và hai bản bằng tiếng La-tinh, với các khác biệt về cách
diễn tả và điểm nhấn. Bản Tây Ban Nha (được gọi là “Thủ bút”) có các
thay đổi trong phần ghi bên lề bằng chính tay I-nhă. Cả ba bản đều
được chính I-nhă sử dụng, và cả hai bản La-tinh đều được Đức Giáo
Hoàng Phaolô IV chuẩn y năm 1548. V́ thế, ngay bản văn Linh Thao cho
thấy có các vấn đề cần được chú giải; và cách chú giải rất quan trọng
cho mọi sứ vụ có liên quan đến việc sử dụng chúng. Các dịch giả hiện
thời của sách Linh Thao và những người chú giải sách nhận những
quan điểm và lư lẽ khác nhau trong việc chọn sử dụng bản gốc nào, và
họ đưa ra nhiều giải thích cho sự khác biệt giữa các phiên bản đó.
Hiến Luật Ḍng Tên[vii].
I-nhă vẫn đang làm việc với tài liệu này, trong khi tham khảo ư kiến
các Giêsu hữu khác, cho đến lúc ngài qua đời năm 1556, và một phiên
bản cuối cùng đă được ấn hành sau đó. Đối với Hiến Luật, chưa
ai xác định được chính xác là Polanco, thư kư nhiều năm của I-nhă, và
những người cộng sự đă đóng góp bao nhiêu phần vào đó. Một trong
những yếu tố quan trọng mà chúng ta phải xét đến khi đọc Hiến Luật
là trong khoảng mười sáu năm đó, con số thành viên Ḍng Tên đă gia
tăng đáng kể, từ một nhóm nhỏ đến một ngàn người. Điều này hẳn đă áp
đặt trên vai I-nhă và các cộng sự viên nhiệm vụ viết đi sửa lại nhiều
lần, v́ các chỉ thị và cơ cấu thích hợp cho một nhóm nhỏ mà phần lớn
đă thân thiết với nhau th́ không chắc đă thích hợp với hàng ngàn người
rải rác khắp thế giới.
Nhật kư Thiêng liêng[viii].
Vào một vài giai đoạn trong đời ḿnh, I-nhă đă viết nhật kư, trong đó
mỗi ngày ngài ghi lại điều ngài cảm nghiệm trong cầu nguyện và khi
dâng Thánh lễ. Điều này giúp ngài thực hiện các quyết định quan
trọng. Chúng ta c̣n giữ lại được hai mảng nhật kư, từ ngày
02/02/1544
đến 27/02/1555. Đây là thời gian I-nhă đang viết Hiến Luật, và
ngài đă sử dụng nhật kư như một phần của tiến tŕnh nhận định một số
chọn lựa quan trọng cho lối sống của Ḍng.
|
|
|
|
|
|
|
|
|
GIẢI THÍCH LINH ĐẠO I-NHĂ
Như đă thấy, không một tài liệu nền
tảng nào của linh đạo I-nhă lại không có những vấn đề đặt ra cho người
chú giải. Ai trong chúng ta không phải là chuyên viên về lịch sử th́
nên dựa vào công tŕnh của những người khác để hiểu về đời sống của
I-nhă, sách Linh Thao, các bản văn nền tảng khác và lịch sử
thời kỳ đầu của Ḍng Tên. Mặc dù có nhiều bản tiểu sử của I-nhă,
nhưng không bản nào trong đó dựa trên học thuật phê bình chi tiết
và phương pháp chú giải lịch sử. Tuy nhiên, từ lần phát hành đầu
tiên của cuốn sách này (Eyes to See, Ears to Hear—Mắt Thấy Tai Nghe)
đến nay, có hai công tŕnh được xuất bản đã giúp soi sáng đáng kể
các lănh vực này. Cuốn The First Jesuits (Các Giêsu hữu
Tiên khởi) của John O’Malley,[ix] là sách lịch sử đầu tiên về giai
đoạn h́nh thành Ḍng Chúa Giêsu (Ḍng Tên) và cách các Giêsu hữu tiếp
cận linh đạo và sứ vụ. Cuốn sách này đề cập đến tất cả các vấn
đề phê b́nh có liên quan trong khoa chú giải lịch sử. Nó không chỉ
chứa đựng một lượng thông tin phong phú về cuộc đời I-nhă và nhóm bạn
đầu tiên của ngài, mà c̣n đưa ra một lối chú giải rất mới mẻ về sự
nhận thức của các Giêsu hữu tiên khởi về chính ḿnh, về cách họ phát
triển một nền linh đạo độc đáo cũng như cách họ tiếp cận với sứ vụ,
với sự tham chiếu chặt chẽ các sự kiện, nhân vật, trào lưu, phong trào
và các hoàn cảnh thay đổi, cả ở Roma và trong một thế giới rộng hơn
thời ấy. O’Malley cũng đă nói kỹ về sách Linh Thao, bao gồm việc
soạn thảo các bài tập ấy, mục đích của chúng, các phiên bản khác nhau
và việc sử dụng chúng.
Cuốn sách thứ hai mà tôi muốn giới
thiệu với độc giả như một thí dụ về cách chú giải đang được bàn ở đây
là cuốn Understanding the Spiritual Exercises: A Handbook for
Retreat Directors, Text and Commentary (Hiểu biết Linh Thao: Cẩm nang
cho Người Giảng pḥng, Bản văn và Chú giải) của Michael Ivens.[x] Được soạn để giúp những người
hướng dẫn Linh Thao ngày nay, sách này được viết dựa trên giả định
rằng “để hướng dẫn một người khác đi qua những bài Linh Thao của Thánh
I-nhă, ta cần phải có một hiểu biết đầy đủ về chính các bài Linh
Thao”. Trong sự khôn ngoan rất thực tế, Ivens đưa ra một tổng hợp
độc đáo bao gồm: một hiểu biết sâu sắc về các nguồn văn và truyền
thống liên tục của I-nhă; một hiểu biết cặn kẽ về các phiên bản khác
nhau của sách Linh Thao; một ư thức có suy tư về các trào lưu
trong thần học và linh đạo hiện nay, và những hoa trái trong kinh
nghiệm của chính tác giả khi giúp tĩnh tâm cho rất nhiều lớp người
trong nhiều năm. Phần chú giải của ông bao gồm nhiều sự cân nhắc khác
nhau tùy theo trường hợp. Thí dụ, ông đề cập đến những từ ngữ khác
biệt giữa các phiên bản khác nhau của sách Linh Thao, để làm
sáng tỏ vấn đề khi cần thiết. Ông chú ư đến các thay đổi trong cách
nh́n, cảm nhận, giả định và điều kiện lịch sử giữa thời đại I-nhă và
hiện tại. Và ông không ngừng sử dụng truyền thống khai mở và sống
động của việc chú giải Linh Thao. Những phẩm chất này làm cho các
sách của John O’Malley và Michael Ivens trở nên những sách cần phải
đọc đối với bất cứ ai muốn có được những phương pháp chú giải tốt,
muốn đào sâu hiểu biết về I-nhă trong thời đại của ngài, hoặc sử dụng
Linh Thao trong ngày hôm nay để củng cố Tin Mừng và Nước Thiên Chúa.
|
|
|
|
|
|
|
|
|
CÁCH CHÚ GIẢI TRUNG THÀNH VÀ SÁNG TẠO
Nói cho cùng, cách chú giải mà tôi
đang đề cập ở đây thuộc về vấn đề nhận định.[xi] Nền tảng của nó cũng giống như
nền tảng của mọi cách nhận định tốt khác: đó là mối tương quan sống
động và có sức biến đổi giữa ta với Thiên Chúa, trong đó, với tư cách
là những người chú giải, chúng ta cảm nghiệm, hiểu biết, phán đoán và
chọn lựa; c̣n mục tiêu của nó là củng cố đời sống trong Thần Khí nhằm
phục vụ cho Nước Thiên Chúa. Mối tương quan này với Thiên Chúa là một
ân sủng được truyền đạt qua một truyền thống linh đạo đặc thù. Nó cho
chúng ta tự do để thông hiểu và giải thích truyền thống ấy, nhưng
chính truyền thống này cũng là một ân sủng, nghĩa là một món quà của
Thiên Chúa. Trong tiến tŕnh t́m hiểu và tiếp thu đó, Thiên Chúa đ̣i
chúng ta sử dụng tất cả mọi nguồn tài liệu ḿnh có, để bảo đảm rằng
các kết quả có được sẽ chính xác, mang tính sáng tạo, đầy ḷng mến và
sự khôn ngoan trong giới hạn của chúng ta. Các loại câu hỏi và phương
pháp điều tra nghiên cứu mà tôi đă mô tả sẽ h́nh thành một phần của
các nguồn tài liệu, và như thế chúng trở nên cốt lõi cho nhiệm vụ chú
giải trong một truyền thống nào đó. Một truyền thống đến từ quá khứ,
tuy vậy, không phải là bất di bất dịch đ̣i hỏi chúng ta phải rập khuôn
một cách nô lệ và g̣ bó; nó cũng không phải là cái ǵ mà chúng ta chỉ
lặp lại một cách đơn thuần. Giải thích tường tận một nền linh đạo là
sử dụng mọi nguồn tài liệu ḿnh có để trung thành với một di sản của
quá khứ, đồng thời mang tính sáng tạo và canh tân để đáp ứng nhu cầu
của thời đại. Tương quan của chúng ta với Thiên Chúa là quà tặng của
Thánh Thần, nó giúp chúng ta được tự do để thông hiểu và giải thích
truyền thống một cách trung thành từ quan điểm của chính ḿnh. Mối
tương quan này giúp chúng ta rút ra từ di sản chung để linh động áp
dụng trong hoàn cảnh hôm nay. Nếu chúng ta chân thành t́m kiếm lối
sống trung tín với Tin Mừng trong đời sống hằng ngày, th́ nhờ ân sủng
chúng ta sẽ được giải phóng để thực hiện các chú giải tận căn và sáng
tạo về truyền thống ấy dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần. Các cuộc
thảo luận liên tục với các thành viên khác của “cộng đoàn những người
có khả năng chú giải và thực hành”, cùng với các tiêu chuẩn đă được
thiết lập để nhận định tốt, tất cả sẽ giúp chúng ta lượng định tính
hợp lệ của các chú giải của ḿnh. Toàn thể tiến tŕnh này góp phần
vào việc tiếp tục đón nhận, tiếp thu linh đạo I-nhă, một nền linh đạo
có khả năng bao gồm cùng một lúc sự trung tín, với nét táo bạo, mới
mẻ, sáng tạo, và cách mạng.
David Longsdale
01/2000
|
|
|
|
|
|
|
|
|
PHẦN DẪN NHẬP
[i]
V́ văn hóa Việt Nam thưở xưa kiêng cữ việc gọi tên húy, nên ở Việt
Nam quen gọi Ḍng Chúa Giêsu là Ḍng Tên, có nghĩa là Ḍng mang
tên Chúa Giêsu (chú thích của người dịch).
[ii]
Chẳng hạn, tại Anh, nxb Penguin Books đă cho in cuốn St
Ignatius of Loyola: Personal Writings, bản dịch với phần giới
thiệu và ghi chú của Joseph A.
Munitiz và Philip Endean (1996).
[iii]
“Chủ nghĩa duy truyền thống Ḍng Tên” (Jesuit fundamentalism) là
một thuật ngữ được Philip Endean sử dụng để miêu tả hiện tượng
này: “Fundamentalist là một từ gây nhầm lẫn cả về cảm xúc lẫn sức
mạnh. Hiện giờ nó mang những ngụ ư về chính trị và giáo hội, và
việc sử dụng nó được phát triển lúc đầu trong khung cảnh Tin
Lành. Trong bài này, tôi sẽ sử dụng từ này theo nghĩa hẹp, để chỉ
một cách tiếp cận các bản văn kinh thánh... không chú ư đến các
vấn đề của việc chú giải.” Xem “Who do you say Ignatius is?
Jesuit fundamentalism and beyond” trong Studies in the
Spirituality of Jesuits 19/5, November 1987, tr.11.
[iv]
Các bản dịch Anh ngữ của cuốn Tự thuật bao gồm: Inigo: Original
Testament, dịch bởi William Yoemans SJ (London: Inigo
Enterprises, 1985); A Pilgrim”s Journey: The Autobiography of
Ignatius Loyola, do Joseph N. Tylenda SJ biên tập (Wilmington,
Del.: Michael Glazier, 1985); Ignatius of Loyola. The Spiritual
Exercises and Selected Works, do George E. Ganss SJ biên tập
(New York: Paulist Press, 1991) tr. 65-112; St. Ignatius of
Loyola: Personal Writings, bản dịch với phần giới thiệu và ghi
chú của Joseph A.
Munitiz và Philip Endean (London: Penguin Books, 1996).
[v]
Có nhiều bộ sưu tập các lá thư của I-nhă.
Chẳng hạn, Letters of St Ignatius Loyola, William J.
Young SJ tuyển chọn và dịch (Chicago: University Press, 1959) được
trích lại thành Letters; St Ignatius Loyola: Letters to
Women, do Hugo Rahner SJ biên tập (London: Nelson, 1960);
St. Ignatius of Loyola: Personal Writings, bản dịch với phần
giới thiệu và ghi chú của Joseph Muntiz và Philip Endean (London:
Penguin Books, 1996) tr. 113-278.
[vi]
Nhiều bản dịch Anh ngữ của sách Linh Thao hiện đang được sử
dụng: Louis J.
Puhl SJ (Chicago: University Press, 1950); A. Mottola (Doubleday,
Image Books, 1964); David L.
Flemming SJ, The Spiritual Exercises of St Ignatius: A
Literal Translation and Contemporary Reading (St Louis:
Institute of Jesuit Sources, 1978); Ganss, sđd, tr. 113-214;
Munitiz and Endean, sđd, tr. 281-360.
[vii]
Xem The Constitutions of the Society of Jesus, bản dịch với
phần giới thiệu và chú giải của George E. Ganss SJ (St. Louis:
Institute of Jesuit Sources, 1970); The Constitutions of the
Society of Jesus and their Complementary Norms, John Patberg
SJ biên tập (St. Louis: Institute of Jesuit Sources, 1996).
[viii]
Để xem một bản dịch Anh ngữ về bản văn thú vị nhưng rất khó hiểu
này, xem Munitiz và Endean, sđd.
[ix]
John W. O’Malley SJ, The First Jesuits (Cambridge, Mass.:
Havard University Press, 1993).
[x]
Michael Ivens SJ, Understanding the Spiritual Exercises: A
Handbook for Retreat Directors: Text and Commentary
(Leominster, UK: Gracewing, 1998).
[xi]
Đối với phần này, tôi trân trọng ghi ơn nghiên cứu của Philip
Endean; xem note 2 trên đây.
|
| |