Trang chính
Bao
DH
2006
2006-02
|
|
. |
|
Tâm Sự Với Cha I-Nhă
|
|
|
|
|
|
|
An-Tôn Phao Lô, SJ |
|
|
|
|
|
Du khách đến Roma
không thể nào bỏ qua thánh đường "Il Gesù" (Chiesa del Gesù, Thánh
Danh Chúa Giêsu), nhà thờ "mẹ" của ḍng Tên ở Roma. Nhưng
bên cạnh ngôi
thánh đường nguy nga xây dựng theo kiểu Baroque là một khu nhà nhỏ, nơi
thánh I-nhă và các cộng
sự viên tiên khởi của người đă
sinh sống và
làm việc từ năm
1544, sau khi ḍng Tên
được chính thức hoạt động từ năm
1540.
Căn
nhà này (góc
đường Via d’Ara Coeli và Via di San Marco, khoảng 100 mét phía nam của
Il Gesù) là cư
sở thứ năm
và cuối cùng
của thánh I-nhă. Trong căn
nhà đơn
sơ
xây bằng gạch và đá
trát vôi, với
những cột gỗ thấp lè tè và nền gạch đất nung thô sơ,
cha I-nhă đă
điều hành tất cả các hoạt động của hội ḍng cho đến khi người
qua đời năm
1556. Nơi
đây
người đă
cặm cụi viết
và trả lời trên 7000 lá thư
về đủ mọi đề
tài, từ việc thiêng liêng cho đến xây dựng trường ốc. Đây
cũng
là nơi
người soạn
thảo Hiến Pháp ḍng (the Constitutions, 1549-1553) đặt nền tảng hoạt
động cho ḍng.
Bước lên những bậc
cầu thang ọp ẹp, tôi rẽ vào một hành lang nhỏ dẫn đến căn
pḥng của
người. Căn
pḥng khá đơn
sơ,
ngăn
làm đôi.
Bên ngoài là pḥng làm việc,
bên trong là pḥng ngủ. Một chiếc bàn cũ
với một vài
cái ghế gỗ đă
bạc mầu thời
gian. Đằng sau, ánh sáng vàng vọt chiếu lên bức tường. Giữa căn
pḥng làm việc
có trưng
bày một tượng
của thánh I-nhă bằng đồng đen,
lấy mẫu từ gương
mặt của người
lúc mới qua đời (death mask). Tôi quỳ xuống và nhắm mắt lại cầu nguyện.
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Nghe có tiếng động
khe khẽ, tôi mở mắt ra và nh́n về bàn làm việc. Đằng sau ngọn đèn
dầu leo lét,
một người đàn
ông đang
cặm cụi viết.
Chiếc trán hói và cái mũi
khoằm chỉ gặp một lần chắc khó quên. Tôi nhận ra người ngay.
Tôi rụt rè tiến đến. Người đàn
ông ngửng lên, mỉm cười và nói với tôi: "Anh đến thăm
cha hả? Đợi
cha một tí nhé!" Nói xong, người kư tên vào miếng giấy c̣n đang
viết dang dở
— Ignatius. Chữ viết khá đẹp, sắc nét.
"Ngồi xuống đây",
người khoát
tay bảo tôi ngồi, rồi đứng dậy bước về chiếc ghế gỗ gần đó.
Cha I-nhă không cao lắm,
người gầy g̣, đi
lại hơi
khập khiễng.
Hỏi han tôi một hồi rồi người nheo mắt nh́n tôi: "Anh đến t́m cha có
việc ǵ không?" Tôi ấp úng: "Con biết cha rất bận. Nhưng
con xin cha nếu
có thể được, cho con phỏng vấn một tí cho báo Đồng Hành được không ạ?"
Người cười xoà: "Phỏng vấn à, thế con muốn biết điều ǵ?"
Tôi móc sổ tay và
liếc qua những câu hỏi đă
dọn sẵn. Nhưng
không hiểu
tại sao tôi lại thưa
với người: "Xin kể cho con nghe về cuộc đời của cha." Cha I-nhă
nheo mắt: "Điều
này th́ cha thư
kư Luis Goncâlves da Câmara
đă
viết lại rồi
mà." Tôi phản đối: "Con biết thế, nhưng
con vẫn muốn nghe từ cha cơ!
Cha có thể kể
một chút về gia đ́nh
của cha không?"
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Thiếu thời
(1491-1521)
Cha I-nhă lim dim đôi
mắt: "Cha
sinh ra ở Loyola thuộc miền Guipúzcoa xứ Basque trong một gia đ́nh
trung lưu.
Cha là con út của
một gia đ́nh
khá đông
anh chị em —
13 người cả thảy. Tên cúng cơm
của cha là Inigo López de Loyola. Mẹ cha mất sớm, cha lớn
lên dưới sự chăm
sóc của bà vú Maria. Khi cha lên 7 tuổi, anh hai Martin Garcia
của cha kết hôn, cha về sống với anh chị."
Tôi hỏi ḍ: "Con
nghe nói hồi trẻ cha cũng
quậy lắm?"
Người cười xoà: "Đúng
thế. Hồi nhỏ
cha rất ham chơi
và biếng học.
Tuy nhỏ con, nhưng
cha hay họp bạn với bọn nhóc ở gần lâu đài
Loyola, chia phe
đánh
trận. Sợ cha
lêu lổng không nên thân, khi cha được 16 tuổi, gia đ́nh
gửi cha vào
học việc với quan đại thần Juan Velazquez, thủ quỹ của triều đ́nh
Tây Ban Nha. Sẵn
môi trường giao tiếp với quan chức triều đ́nh
cha được học
nhiều thứ: quản trị, kiếm thuật, khiêu vũ,
giao tiếp, ca
nhạc, văn
thơ.
Nhưng
cha mê nhất
là đánh bạc,
đấu gươm
và lấy ḷng
các tiểu thư.
Tính cha cũng
nóng nảy và
hay gây gỗ lắm. Cha c̣n nhớ có lần cha và một ông anh gây lộn với một
gia đ́nh
quư tộc khác.
Tụi cha phục kích họ, làm cho mấy người bị trọng thương.
Cha phải đi
trốn. Vụ này
khá rắc rối v́ bên kia thưa
kiện ra ṭa.
Cha nại lư do cha đă
chiụ "phép cắt tóc" thuộc về hàng giáo sĩ
nên được miễn
trừ khỏi toà đời. Có mấy người làm chứng rằng cha luôn mặc giáp phục,
đeo dao kiếm,
nào có thấy cha mặc áo chùng thâm. Vụ này kéo dài cả tháng. Nhưng
v́ thế lực
gia đ́nh của
cha khá mạnh, nội vụ cũng
chẳng đi
đến đâu.
Thật ra có bao giờ
cha muốn làm giáo sĩ
đâu,
cha thích vơ nghệ
và công danh hơn!
Chẳng qua là
theo phong tục Basque, người con trai cả trong gia đ́nh
hưởng quyền
thừa kế. Những người con khác được cha mẹ thu xếp hoặc tự lo lấy. Con
gái th́ dễ: về nhà chồng. Con trai có ba đường tiến thân: triều đ́nh,
hàng hải và
giáo hội. Thường người con trai út làm linh mục để hưởng giáo bổng. Đúng
ra là người
anh kế của cha, Péro López đă
được gia đ́nh
chỉ định làm
linh mục rồi, nhưng
gia đ́nh
cha "bảo trợ"
giáo xứ Azpeitia, nên cũng
muốn cha gia nhập hàng giáo sĩ
để "pḥng hờ"
giáo bổng khỏi lọt ra người ngoài, nếu anh Péro chết sớm."
Tôi hỏi: "Vậy nên
cha chọn đường binh nghiệp? Con nghe nói cha đă
từng chỉ huy trận đánh
với quân Pháp
ở thành Pamplona tháng 5 năm
1521."
Người lắc đầu: "Cũng
không hẳn là
như thế.
Cha cũng
chẳng phải là
một nhà binh chuyên nghiệp. Chỉ được cái gan ĺ. Năm
đó,
cha được 30
tuổi, cái tuổi ‘tam thập nhi lập’ ấy mà. Cũng
muốn có tí công danh để đời chứ ăn
bám gia đ́nh
hoài th́ cũng
kỳ. Mà con
đường nhanh nhất để tiến thân là chiến công. Cha đến phục vụ cho phó
vương xứ
Navarra, vùng tranh chấp của Pháp và Tây Ban Nha. V́ có nội loạn trong
triều, nên người Pháp thưa
cơ
chiếm thành
Pamplona, thủ phủ của Navarra. Cha xung phong giữ thành
Pamplona
dù biết lực lượng quân Pháp khá mạnh. Người Pháp nă đại bác vào thành,
tổn thất khá nặng. Chỉ huy trưởng của cha định đầu hàng, nhưng
cha nhất định tử thủ đến cùng. V́ danh dự và vinh quang: sĩ
khả sát, bất
khả nhục. Cha bị trúng một quả đại pháo bị thương
nặng, tưởng chết luôn.
Lúc tỉnh dậy th́
thấy ḿnh đang
ở nhà. Th́ ra
người Pháp đă
băng
bó và cho người
đưa cha về
lâu đài
Loyola. Không hiểu
tại sao họ lại không bắt cha làm tù binh. Có lẽ v́ họ thấy cha gan ĺ
chăng, hay
tội nghiệp
cha th́ cũng
không rơ. Chỉ
biết rằng lúc bấy giờ chân phải cha bị găy lià đang
bó bột, chân
trái th́ bị dập xương."
Tôi hỏi tiếp: "Vậy
cha phải mất bao lâu mới đi
lại được?"
Cha I-nhă kể: "Người
Pháp chỉ băng
bó sơ
nên vết thương
làm độc và
không lành. Bác sĩ
gia đ́nh
phải mổ chân
ra kéo xương
ống ra sắp
lại. Không có thuốc tê, đau
muốn chết nhưng
cha cắn răng
chịu. Lúc đó
cha bị sốt
cao, bác sĩ
sợ cha không
qua khỏi, nói người nhà chuẩn bị hậu sự. Nhưng
mà Chúa cũng
thương
nên rồi chân cũng
lành. Nhưng
khi tháo bột
th́ cha buồn kinh khủng. Mẩu xương
ống quyển ḷi
ra khỏi đầu gối, chân phải ngắn hơn
chân trái, rất
khó coi. Hồi đó
trang phục của các công tử là áo phồng tay, quần chẽn để hở đầu gối,
mang giày và đội mũ.
Phải là mũ
đỏ, v́ đó
là dấu hiệu đặc biệt của ḍng họ Loyola. Lại phải cài một
cái lông ngỗng trên mũ
phía tay trái và
đeo
kiếm bên hông
trái. Cái chân kiểu đó
th́ làm sao mặc
quần chẽn được. Thà chết c̣n hơn!
Cha nhất định bắt bác sĩ
phải cưa
cái mẩu xương
ḷi ra và dùng dây và kẹp
gỗ kéo ra cho chân phải dài ra. Cũng
không có thuốc
tê. Đúng
là phù phiếm
hăo huyền của tuổi trẻ."
Nói rồi người vén
ống quần, đưa
chân cho tôi coi. Một
vết sẹo sâu hoắm dưới đầu gối. Bây giờ tôi mới hiểu rằng tại sao người
đi khập
khiễng, chân thấp chân cao.
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Thanh Tẩy
(1521-1522)
Tôi nh́n người ái
ngại: "Chắc lúc đó
cha thất vọng
lắm nhỉ? Vậy cha làm ǵ cho hết giờ?"
Người lắc đầu: "Chúa
làm việc thật lạ lùng. Lúc đó
cha nản lắm, như
thằng què nằm trên giường bệnh, không biết ḿnh sẽ làm ǵ nữa.
Cha muốn đọc truyện cho khuây khoả. Khổ nỗi trong nhà chẳng có truyện
kiếm hiệp hay truyện phiêu lưu
t́nh cảm, mấy thứ sách mà cha ưa
chuộng. Bà
chị dâu đạo đức của cha, chị Magdalena người mà cha coi như
người mẹ thứ hai v́ đă
nuôi dậy cha,
đưa cho
cha quyển
Truyện Các Thánh và Cuộc Đời Chúa Cứu Thế. Lúc đầu cha không muốn đọc
mấy thứ sách khô khan đó,
nhưng
chán không có ǵ
đọc thành ra lâu lâu
cha mở vài trang xem cho đỡ buồn. Đọc đi
đọc lại, đôi
khi cha cũng
cảm thấy
thích thú.
Pḥng cha ở có một
cửa sổ nh́n ra vườn. Cha hay ngồi hàng giờ ngắm trời ngắm đất rồi để
trí tưởng tượng của ḿnh phiêu lưu.
Có khi cha mơ
màng suốt ba
bốn tiếng đồng hồ liền mà không hay. Cha tưởng tượng đến những công
việc mà cha sẽ làm để lấy ḷng một công nương,
rồi cách thức để đi
đến nơi
nàng ở, những
bài thơ và
những lời lẽ
cha sẽ nói với nàng, và cả những chiến công hiển hách để dâng tặng
nàng.
Có lúc cha cũng
suy nghĩ
về những điều
cha đă
đọc. Cha thấy
các thánh hay quá và thỉnh thoảng cha cũng
tự hỏi ḿnh. Giá mà cha cũng
làm được
những việc như
thánh Phanxicô hay thánh
Đa-Minh
đă
làm. Cha thấy
những việc lành ấy cũng
không thấy
khó khăn
ǵ lắm. Mỗi
lần như thế,
cha lại tự nhủ: ‘Các thánh đă
làm việc này th́ cha cũng
phải làm được.’
Từ từ cha thấy có
những phản ứng khác nhau. Lúc nghĩ
đến chuyện đời, cha cảm thấy rất thích thú, nhưng
khi hết nghĩ
đến th́ lại
thấy khô khan và trống rỗng. Trái lại lúc nghĩ
đến làm các việc đạo đức và khổ hạnh như
các thánh đă
làm th́ lại
thấy phấn khởi. Không những trong lúc nghĩ
đến, mà cả khi hết c̣n nghĩ
đến nữa, cha
vẫn cảm thấy vui và hài l#̣ng. Hồi đó,
cha không biết tại sao, chỉ lấy làm lạ về các phản ứng khác nhau
đó. Sau
này cha mới khám phá ra có hai thứ ảnh hưởng trên tâm hồn: một thứ do ma quỉ bày
ra, c̣n một thứ khác do Thiên Chúa soi sáng.
Trong sáu tháng
dưỡng thương
đó,
cha bắt đầu ư
thức rằng Chúa đă
cho cha một
cơ hội
mới và cha cần phải ăn
năn
hối cải. Một
đêm kia,
không ngủ,
cha thấy rơ ràng h́nh ảnh Đức Mẹ cùng với Chúa Giêsu Hài Đồng. Khi
thấy như vậy, cha cảm thấy rất hứng khởi một lúc khá lâu và ghê tởm
tất cả cuộc sống quá khứ, đặc biệt là những chuyện xác thịt. Cha quyết
định rằng khi nào khoẻ mạnh lại, cha sẽ đi
tận
Giêrusalem đồng thời tự đánh
tội và nhịn ăn
với tất cả
ḷng sốt mến. Nhờ ước muốn thánh thiện này, các chuyện phù phiếm kia
dần dần bị quên lăng. Cha từ từ thấy việc đọc sách thiêng liêng có ích
lợi. Cha lấy một cuốn vở nhỏ và chép một số đoạn
chính trong đời sống của Chúa và các Thánh mà cha đă
đọc. Lúc đó
suốt ngày cha chỉ lo chép sách và cầu nguyện và mong chóng
được b́nh phục để đi
Giêrusalem. Cha c̣n dự
tính thêm sau khi đi
Giêrusalem về,
cha sẽ sống khắc khổ tại một đan
viện khổ tu.
Khi nghi là cha ‘sắp
có thay đổi lớn’, ông anh Martin t́m cách thuyết phục cha: ‘Mọi sự nơi
em đều tuyệt,
từ tinh thần, phán đoán,
đến ḷng can
đảm và tinh thần cao thượng. Em được vua chúa sủng ái, dân chúng quư
mến, có vơ nghệ cao cường, lại khôn ngoan. Bao nhiêu hy vọng đẹp đẽ và
chắc chắn trong lúc em c̣n trẻ và tương
lai c̣n dài. Em tính xóa sạch
sao? Em nỡ phụ ḷng bạn hữu sao? Em đă
khởi động rất
tốt, hứa hẹn sẽ cho gia đ́nh
được rạng rỡ, em tính phủi tay hết sao? Anh hơn
em về tuổi,
nhưng em hơn
anh về tài.
Anh xin em suy nghĩ
kỹ về điều
em đang dự
tính: coi chừng chẳng những em làm cho gia đ́nh mất vinh quang đáng
được hưởng mà
c̣n làm cho gia đ́nh
phải tủi hổ
nữa.’ Cha ừ ào cho xong, nhưng
vẫn không đổi ư định.
Muà xuân năm
sau (1522), thấy
tạm khoẻ lại và có thể lên đường, cha nói với gia đ́nh
sẽ dự tính đi
thăm
một vị công
tước ở Navarete, người c̣n thiếu nợ gia đ́nh
cha một số tiền. Xong việc, cha cưỡi la rời Navarete hướng về
Montserat là nơi
hành hương
khá nổi tiếng ở vùng ấy.
Trên đường có một
chuyện làm cha nhớ măi. Dù đă
cố gắng ăn
năn
hoán cải, nhưng
tính háo thắng
của cha vẫn c̣n. Cha gặp một người Môrô (Tây Ban Nha theo đạo Hồi) và
hai người nói với nhau chuyện này sang chuyện khác. Cuối cùng chúng
tôi nói với nhau về Đức Mẹ. Người kia không tin là Đức Mẹ vẫn c̣n đồng
trinh khi sinh con, mặc dù cha đă
đưa
ra nhiều lư
lẽ để thuyết phục. Khi người ấy đi
rồi, cha bắt
đầu thấy bất bất măn với chính ḿnh, v́ cho rằng cha đă
không làm đủ
bổn phận, đồng thời cảm thấy nổi giận v́ đáng
lư cha không thể
để một người ngoại đạo nói những điều
chướng tai về Đức Mẹ như
thế. Máu tự ái nổi lên và cha tính chạy theo người Môrô cầm
dao găm
đâm
hắn mấy cái.
Cha phải ‘bảo vệ danh dự’ của Đức Mẹ chứ! Nhưng
cha do dự một lúc lâu, không biết bổn phận đ̣i
hỏi ḿnh nên
làm ǵ. Tới ngă ba, cha thả cương
con la để nó
đi tự
do: nếu con la quặt vào đường làng, cha sẽ kiếm người Môrô và sẽ đâm
hắn, c̣n nếu
nó tiếp tục đi
trên con
đường chính, th́ cha sẽ bỏ qua. Nhưng
Chúa đă
khiến con lừa bỏ con đường làng, và tiếp tục đi
vào con đường
chính. Lúc đó
cha mới hối
hận, tại sao chỉ v́ tính háo thắng và cha suưt giết người.
Tới tu viện của các
cha Biển Đức ở Montserat, sau khi cầu nguyện, và bàn hỏi với một cha
linh hướng, trong ba ngày cha viết ra mọi tội lỗi trên một tờ giấy rồi
xưng tội.
Cha giữ lại con la, c̣n cái gươm
và con dao găm
th́ cha treo
trên bàn thờ Đức Mẹ. Vào buổi tối ngày hôm trước lễ Đức Mẹ Truyền Tin
(25-3), cha thay đổi quần áo với một người nghèo, mặc áo thô như
đă
ước ao, trở về nhà thờ gậy cầm trên tay, khi qú, khi đứng
mà canh thức suốt đêm
trước bàn thờ Đức Mẹ.
Sau đó cha dự
định xuống Barcelona để đáp tàu đi hành hương đất thánh."
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Cảm nghiệm ở Manresa
(1522-1523)
Tôi ngắt lời: "Nhưng
trên đường đi
Barcelona, h́nh như
cha c̣n ghé
Manresa khá lâu. Cha dự định làm ǵ ở đó?"
Cha I-nhă trầm ngâm:
"Thật ra, lúc đầu để tránh người quen, cha ghé Manresa, định ở lại đó
vài ngày trọ
tại nhà thương
Santa Lucia,
để nghỉ ngơi
chuẩn bị cho cuộc hành tŕnh dài đi
Đất Thánh.
Nhưng cuối
cùng th́ cha đă
sống ở đó
gần 10 tháng.
Cha dọn vào một cái hang gần bờ sông Cardoner, ngày ngày đi
khất thực, ăn
chay và sống
khổ hạnh. Lúc này cha không c̣n để ư đến sắc diện bề ngoài nữa: ăn
mặc sơ
sài, để tóc
mọc lên tự nhiên, không cắt không chải; móng tay và móng chân cũng
vậy. Cha ăn
uống thất
thường, ngủ nghỉ không đủ, lại làm việc không ngừng, nên cha ngă bệnh
nặng hai lần, lần trước vào mùa hè, lần sau vào mùa đông.
Tưởng chừng đă
không qua khỏi.
Lúc đầu cha thấy
việc khổ chế và hăm ḿnh đem
lại cho cha
phấn chấn, nhưng
lần hồi cha thấy chán nản và tuyệt vọng. H́nh như
có ai nói trong thâm tâm: ‘Làm sao anh có thể chịu đựng một cuộc đời cực khổ như
thế này suốt
những năm
c̣n lại trong
đời anh?’ Biết rằng đó
là sự cám dỗ cha cương
quyết chống
trả, và quyết tâm khổ chế hơn
nữa. Có nhiều
lúc cha cảm thấy bối rối khủng khiếp v́ những tội lỗi cha đă
phạm. Dù đă
ăn
năn
và xưng
thú nhiều lần
nhưng cha
vẫn không
thấy an tâm. Mặc dù biết rằng ḷng bối rối gây hại cho ḿnh, và nên
vượt qua t́nh trạng đó,
cha cũng
không làm sao
thoát khỏi. Hồi đó
mỗi ngày cha
quỳ gối cầu nguyện suốt bảy tiếng đồng hồ, ăn
chay đánh
tội. Tuy
nhiên, những việc đó
không giải
quyết được ḷng bối rối đă
gây khổ sở cho cha trong nhiều tháng. Có lần cha đă
nhịn ăn
cả tuần để
xin ơn
thoát khỏi
t́nh trạng này. Nhưng
có b́nh an
được mấy bữa rồi cha lại nhớ đến các tội cũ
và cảm thấy
phải xưng
tội đó
lại một lần
nữa. Cha cảm thấy chán ngấy đời sống khắc khổ và ao ước dứt khoát bỏ
cuộc luôn.
Một hôm quá khổ tâm,
cha rên rỉ lớn tiếng cầu cùng Thiên Chúa: ‘Lạy Chúa, xin Chúa cứu
thoát con v́ con không t́m thấy giải pháp nhờ loài người hay bất cứ
cái ǵ khác. Nếu hy vọng t́m được, con sẵn sàng chịu mọi cực khổ không
tiếc. Xin Chúa chỉ cho con t́m ra giải pháp, dù phải chạy theo một con
chó con để nó giúp con t́m thấy, con cũng
sẵn sàng chạy!’
Nhiều lần cha bị cám dỗ kịch liệt muốn tự tử, nhưng
biết việc tự tử là tội, cha lại kêu lớn tiếng rằng:
‘Lạy Chúa, con không muốn làm điều ǵ mất ḷng Chúa.’ Nhưng
lúc đó,
Chúa thương
giúp cha tỉnh
trí khỏi ác mộng. Nhờ Chúa đă
dậy vài bài
học và cho thu lượm kinh nghiệm về cách thức nhận định các thần loại
khác nhau, cha bắt đầu phân tích các tư
tưởng vừa qua
từ đâu mà
đến, và cuối
cùng dứt khoát không c̣n xưng
tội cũ
nữa. Từ ngày
hôm đó,
cha thoát
được cơn bối
rối và xác tín rằng chính ḷng thương
xót của Chúa
đă cứu
thoát cha.
Ngoài việc cầu
nguyện suốt bảy tiếng đồng hồ mỗi ngày, cha đi
thăm
những người bệnh và nói chuyện về đời sống thiêng liêng. Thời
giờ c̣n lại trong ngày, cha nghĩ
đến Thiên Chúa và nhớ lại những điều
đă suy gẫm
hoặc đọc trong sách. Đôi
lúc cha ghi chép lại
một số ư tưởng vào cuốn sổ tay cha đă
mang theo từ
Loyola. Cuốn sổ tay này giúp cha khá nhiều. Hồi đó
Chúa đối sử với cha như
thày giáo dạy
học tṛ. Trong thời gian này, Chúa đă
cho cha nhiều
thị kiến về Thiên Chúa Ba Ngôi, sự sáng tạo, sự hiện diện của Đức Kitô
trong thánh thể, và Đức Mẹ. Tuy nhiên cha cũng
không biết
cách giải thích những điều
đó, và
không nhớ rơ
được những hiểu biết thiêng liêng mà Chúa đă
in vào tâm hồn cha.
Đặc biệt có một hôm
cha đi
đến một nhà
thờ cách Manresa chừng một dặm để cầu nguyện. Trên con đường song song
với một con sông, cha vừa đi
vừa đọc kinh,
rồi lại ngồi xuống, mắt hướng về ḍng nước chảy dưới thung lũng.
Đang
khi ngồi tại
đó, mắt
tâm hồn cha dần dần mở ra. Mặc dù không có một thị kiến cha đă
am tường nhiều điều.
Cha cảm thấy có dưới một luồng sáng rực rỡ soi vào tâm hồn khiến mọi điều
trở nên mới mẻ. Cha không nhớ rơ chi tiết, nhưng
tính chung, tất cả những ǵ Chúa ban và những điều
cha học hỏi suốt cả cuộc đời cũng
không bằng
những điều
cha đă lĩnh
hội qua các
cảm nghiệm tại Manresa."
Tôi hỏi: "Con nghe
nói sách Linh Thao được cha sáng tác trong giai đoạn
này?"
Cha I-nhă trả lời: "Không
hẳn là như
thế. Cha bắt
đầu ghi lại những cảm nghiệm thiêng liêng và chép Lời Chúa từ những
ngày c̣n dưỡng thương
ở Loyola. Khi
ở Manresa,
cha chép thêm những kinh nghiệm mới được rút tỉa trong những giờ cầu
nguyện và khi tṛ chuyện thiêng liêng với những người cha gặp gỡ khi
thăm viếng các bệnh nhân, đặc biệt là những kinh nghiệm phân biệt
thần loại. Cha ghi lại những điều này v́ cha ao ước giúp người khác gặp gỡ Chúa và được
Người thanh tẩy như
Người đă
làm với cha. Cuốn sổ tay nhỏ của cha sau này được bổ sung thêm,
và sắp xếp lại cho mạch lạc khi cha đi
học ở Paris."
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Hành Hương
và Trở Về Đi
Học
(1523-1524)
Tôi ngạc nhiên: "Đi
học ở Paris?
Chẳng phải cha đă
muốn ở lại
Đất Thánh sao? Chuyện ǵ đă
xảy ra?"
Cha I-nhă cười: "Mưu
sự tại nhân,
thành sự tại thiên. Ư con người sao qua khỏi ư Trời. Khi khoẻ lại một
chút đầu năm
sau (1523), cha lên
đường đi
tới
Barcelona. Đây
là thời gian
thuận tiện để đáp
tàu từ
Barcelona sang Ư, xin phép Đức Thánh Cha tại Roma, rồi phải đến
Venezia vào mùa hè để đáp
tàu hành hương
đi
Giêrusalem. Mặc
dù một số người đă
t́nh nguyện đi
với cha cho
có bạn, nhưng
cha quyết
định đi một
ḿnh v́ muốn thử tập ba nhân đức tin, cậy và mến. Nếu có bạn đồng hành,
khi đói sẽ
nhờ người đó
giúp đỡ, lúc
ngă sẽ nhờ người đó
nâng lên, và
như thế,
cha sẽ tin cậy và thương
mến người đó.
Trong khi cha chỉ
muốn tin cậy và yêu mến vào một ḿnh Chúa mà thôi. Qua nhiều thử thách
cha cũng
đến được Đất
Thánh.
Cha có ư định ở lại
Giêrusalem để viếng các nơi
Thánh và đồng
thời giúp đỡ các linh hồn. V́ thế cha đă
đem
theo sẵn vài
lá thư giới
thiệu với các cha bề trên ḍng Phanxicô là quản thủ các di tích ở
thánh điạ.
Nhưng các
cha ở đó
không muốn
cha ở lại v́ sợ gánh nặng. Cha nhất định không làm phiền họ, nhưng
nại lư do an
ninh, các cha bề trên yêu cầu cha chuẩn bị lên tàu đi
về với nhóm hành hương.
Cha trả lời
rằng cha đă
nhất quyết
rồi và sẽ không thay đổi ư kiến v́ bất cứ lư do ǵ. Nghe vậy, cha giám
tỉnh ḍng Phanxicô cho biết ngài được quyền toà thánh ra lệnh trục
xuất và rút phép thông công những người không vâng lời. Biết rằng
không thể được, cha đành
phải vâng lời.
Trên tàu về Venezia,
sau khi thấy rơ ư Chúa không muốn cho cha ở lại Giêrusalem, cha luôn
luôn cầm trí suy nghĩ
phải làm ǵ
bây giờ, và cha thấy hướng về việc đi
học một thời
gian để "giúp đỡ các linh hồn."
Tôi hỏi ḍ: "Lúc đó
chắc cha thất
vọng lắm nhỉ?"
Cha I-nhă trầm ngâm:
"Thật sự cha cũng
cảm thấy bị
hụt hẫng. Trước khi đi
Giêrusalem, cha lưỡng
lự chưa biết
sau đó khi
hành hương
nên vào một
tu viện hay sống như
một ẩn sĩ.
Nhưng từ
lúc đó,
cha bỏ cả hai
ư định ấy, và dứt khoát hiến thân cho việc tông đồ. Lúc ở Manresa, cha
cảm thấy được thôi thúc "giúp đỡ các linh hồn." Nhưng
giúp như
thế nào, th́
cha cũng
không rơ, bây giờ
th́ thấy đi
học th́ có
thể trang bị thêm kiến thức để giúp các linh hồn nhiều hơn.
Thế là cha quyết
định trở về Barcelona để đi
học lại.
Trước hết phải bắt đầu học lại La tinh, thứ ngôn ngữ của dân có học.
Cha tŕnh bày ư muốn đi
học với mấy
người quen và một thày giáo tiểu học. Họ đều ủng hộ cha. Thầy giáo
Ardevol t́nh nguyện dạy không công cho cha, c̣n cô Isabel t́nh nguyện
kiếm phương
tiện sống cho
cha.
Ba mươi
mấy tuổi đầu
ngồi ê a chia động từ La tinh như
các cậu học
tṛ nhỏ, không phải là chuyện dễ dàng. Đôi
lúc cha cảm
thấy đi phục
vụ người nghèo dễ hơn.
Nhưng
điều
quan trọng là t́m ư của Chúa chứ không chiều theo sở thích của ḿnh.
Cha trở về Manresa và bắt đầu học rất chăm
chỉ. Tuy
nhiên, có một vấn đề gây khó khăn
cho cha: mỗi
lần cha bắt đầu cố gắng học thuộc ḷng một bài nào, th́ lại có những
tư tưởng
mới về đời sống thiêng liêng và những tư
tưởng này làm
cho cha thích thú đến độ không thể nào học thuộc bài được. Cha cố gắng
xua đuổi
tư tưởng
đó mà
không được.
Dần dần cha hiểu rằng đó
là do ma quỷ cám dỗ. Sau khi cầu nguyện, cha đến gặp thầy giáo
và tŕnh bày với thầy giáo kinh nghiệm nội tâm của cha với đầy đủ chi
tiết và giải thích lư do tại sao cha rất chậm tiến trong việc học hành.
Rồi cha hứa với thầy giáo sẽ không bao giờ bỏ học với thầy. Sau khi
cương quyết
hứa như vậy,
cha không bao giờ c̣n bị cám dỗ nữa.
Học xong hai năm,
thầy giáo nói
bây giờ cha có thể theo lớp trung học được và nên đi
học tại
Alcalá. Lúc đó,
cha thấy học
được ǵ th́ học ngay. Cha chưa
có chương
tŕnh lâu dài,
đến nơi
đến chốn, mà
chỉ muốn học tắt một số điều
để có thể dạy giáo lư và hướng dẫn Linh Thao."
Tôi hỏi: "Vậy là cha
đă bắt
đầu hướng dẫn Linh Thao từ Alcalá. Chưa
học triết học
và thần học, cha có gặp rắc rối nào với giáo quyền không?"
Ngài gật đầu: "Đúng
thế, ở Tại
Alcalá, qua việc hướng dẫn Linh Thao và dạy giáo lư, cha gặt được
nhiều hoa trái thiêng liêng và Danh Chúa v́ thế được cả sáng. Có nhiều
người tiến khá xa trong đời sống thiêng liêng và trở nên sốt sắng.
Nhiều người khác lại bị thử thách, mỗi người mỗi khác. Thiên hạ khắp
vùng đồn đăi
rất nhiều về
cha. Những tiếng đồn đó
đến tai Toà
Án Tôn Giáo tại Tôlêđô.
Khi các thanh tra
đến tới Alcalá điều
tra, v́ không t́m được ǵ sai lầm trong giáo lư và lối sống, nên cha
và các bạn sinh viên được phép tiếp tục làm việc không ai làm khó dễ.
Tuy nhiên v́ không phải là tu sĩ
nên không ai
được mặc đồng phục. Bốn tháng sau lại họ mở cuộc điều
tra. Tuy nhiên lần đó
họ không làm
khó dễ nhóm của cha, không đ̣i
ra toà và không nói năng
ǵ cả sau khi vụ án chấm dứt. Mấy tháng sau, cha lại bị tống
giam v́ có hai mẹ con thuộc hàng quư tộc đă
đi
hành hương
âm thầm và
xin ăn
trên đường.
Việc này đă
gây xôn xao ở
Alcalá. Người ta cho rằng cha đă
thổi cho họ ư tưởng đó,
nên cho bắt
cha. Sau đó
hơn
một tháng th́,
hai phụ nữ trở về, viên kiểm sát tới nhà giam đọc bản án rằng: ‘Không
được giảng dạy đức tin cho đến khi học hành đủ trong thời gian bốn năm,
v́ xét thấy
chưa
đủ kiến thức.’
Bản án khiến cha phân vân không biết phải làm ǵ. Người ta vô cớ ngăn
cản không cho
cha giúp các linh hồn chỉ v́ chưa
học hành đầy
đủ.
Cha và nhóm bạn
quyết định đi
Salamanca để
tiếp tục theo đuổi
việc học. Tại Salamanca, cha đă
nhờ một linh
mục Ḍng Đa
Minh ở tu
viện San Esteban làm linh hướng. Gần hai tuần sau, cha linh hướng gọi
cha và một bạn sinh viên đến dùng cơm
trưa
tại tu viện. Dùng cơm
xong, cha tu
viện phó hỏi han cha về những điều
cha giảng dạy. Cha thưa:
‘Có khi chúng con nói về nhân đức này hoặc nhân đức khác và khuyến khích người ta
theo; có khi lại nói về các thói xấu khác nhau và lên án.’ Cha tu viện
phó hỏi tiếp: ‘Các anh không có học, mà lại nói về các nhân đức và các
thói xấu à. Người ta chỉ có thể nói về các đề tài đó
hoặc v́ đă
học hoặc v́
Chúa Thánh Thần soi sáng. Nhưng
các anh không có học nên chỉ nói v́ có Chúa Thánh Thần soi sáng. Vậy chúng tôi muốn biết
Chúa Thánh Thần đă
soi sáng những ǵ?’ Nghe vậy, cha bắt đầu dè dặt v́ nhận thấy cách
lư luận đó
có ǵ không
ổn. Im lặng một lúc, cha nói với họ cha không muốn
bàn thêm về vấn đề đó
nữa. Thấy rằng không thể bắt cha nói thêm điều
ǵ, cha tu viện phó kết luận: ‘Được, đă
vậy th́ cứ
việc ở lại đây.
Chúng tôi sẽ
t́m cách bắt các anh khai hết.’
Ba ngày sau, cha và
người bạn bị đưa
đến nhà giam.
Cả hai bị nhốt riêng và bị xiềng chung bằng một cái xích, mỗi người bị
buộc một chân, và cái xích bị buộc quanh cái cột ở giữa pḥng. Các bạn
của cha cũng
bị bắt. Họ
tra vấn cha về Linh Thao, và cha đưa
cho họ tất cả
tập vở để họ xem xét. Vài ngày sau, cha bị điệu
đến trước mặt bốn thẩm phán. Cả bốn người xem xét bản Linh Thao và ḍ
hỏi nhiều câu, không những về Linh Thao mà c̣n cả về những vấn đề thần
học nữa. Thí dụ về Thiên Chúa Ba Ngôi và về phép Thánh Thể, để xem cha
hiểu biết như
thế nào. Cha
trả lời rành mạch mọi điều
đến độ các thẩm phán không thấy có điều
chi đáng
trách. Họ
muốn biết làm sao cha cắt nghĩa
lúc nào một hành vi xấu bị coi là tội trọng hay tội nhẹ. Sau ba tuần,
họ ra phán quyết như
sau: Trong lối sống cũng
như
trong giáo lư của
nhóm cha, các thẩm phán không t́m thấy lỗi lầm nào. Vậy nhóm cha được
tiếp tục dạy giáo lư và nói về Chúa như
trước, với điều
kiện là không bao giờ được quả quyết: ‘Đây
là tội trọng,
đây là tội
nhẹ’ cho tới khi học xong bốn năm
thần học.
Ngay lúc rời
khỏi nhà giam, cha bắt đầu suy nghĩ và cầu xin Chúa chỉ cách giải
quyết vấn đề. Ở lại Salamanca th́ cha sẽ gặp khó khăn: muốn giúp đỡ
các linh hồn th́ gặp trở ngại v́ lệnh không cho quyết định đâu là tội
trọng đâu là tội nhẹ. Do đó cha quyết định đi Paris học. Ở Salamanca
và Barcelona, nhiều người người quen t́m cách thuyết phục cha đừng đi
sang Pháp v́ chiến tranh đang diễn ra tại đó. Nhưng cha không hề cảm
thấy sợ sệt."
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Paris và nhóm thân
hữu (1528-1535)
Tôi hỏi tiếp: "Cha
bắt đầu có ư lập cộng đoàn
từ lúc nào?"
Cha I-nhă trả lời: "Hồi
ở Barcelona, khi suy xét có nên học hành và học trong thời gian bao
lâu, cha cũng
nghĩ
đến vấn đề là sau khi học xong, cha nên đi
tu hay đi
khắp thiên hạ?
Lúc suy tư
về đời tu,
cha thường nghĩ
đến một ḍng
nào suy đồi, chưa
cải tổ để
được gặp nhiều thử thách. Cha nhất mực tin rằng Chúa cũng
sẽ cho cha đủ nghị lực để chịu đựng mọi sỉ nhục và xúc phạm
sẽ gặp phải. Suốt thời gian tại
Salamanca, cha vẫn
ao ước giúp đỡ các linh hồn. Và để làm việc đó,
cha phải để tâm vào việc học hành đầy đủ hơn,
đồng thời qui
tụ thêm một số bạn bè cùng chí hướng.
Cha đến Paris và đi
học tại
trường Montague để học lại chương
tŕnh trung học, v́ hồi trước cha đă
học quá vội, thiếu căn
bản. Cha học
chung với trẻ em theo phương
pháp và chương
tŕnh áp dụng
tại Paris. Nửa năm
sau, hết tiền
cha phải ăn
xin và rời
nhà trọ. Vừa đi
ăn
xin, vưà
đi
học, cha chẳng tiến bộ được trong việc học hành. Khi bắt đầu
đi học,
cha lại bị thử thách như
khi c̣n học tiểu học tại
Barcelona. Mỗi lần
nghe giảng bài cha không thể tập trung được v́ bị lo ra bởi các tư
tưởng đạo đức.
Thấy học như
thế không có
lợi ích bao nhiêu, cha tới gặp giáo sư
và hứa sẽ
không bao giờ bỏ một giờ học nào bao lâu c̣n kiếm được bánh ḿ ăn
và nước uống
đủ sống. Thấy cần phải có điều kiện tốt hơn,
cha cố gắng
hết sức đi
t́m việc làm,
chạy vạy nhờ vả khắp nơi.
Sau cùng, v́ không t́m
được việc ǵ, một tu
sĩ góp ư
kiến cho cha
là mỗi năm
đi
tới xứ
Flandres, ở lại đó
hai tháng hoặc
ít hơn,
để quyên tiền
sống suốt niên học. Sau khi cầu nguyện, cha thấy giải pháp này hay.
Cha đi và
mỗi năm đem
về được một
số tiền đủ để sống thanh bần.
Có đời sống tương
đối ổn định,
cha lại tiếp tục các cuộc đối thoại thiêng liêng hăng
hái hơn
trước. Đồng thời hướng dẫn Linh Thao cho các người bạn sinh
viên ở trường Saint Barbe. Về những người bạn ở
Salamanca, cha cũng
đă
cố gắng t́m
cách để đưa
họ sang
Paris, nhưng
cuối cùng
việc cũng
không thành. Năm
1529 cha đến
ở trọ với hai bạn trẻ là Phêrô Favre và Phanxicô Javier, và hay nói
chuyện thiêng liêng với họ. Favre gốc nông dân ở Savoie nên đơn
sơ
và dễ mến.
Javier con nhà quư tộc lại giỏi nên cũng
không thích tiếp cận với một anh vưà
già tàn tật,
lại hay bệnh hoạn. Mấy năm
sau, qua Linh Thao cha thuyết phục được hai bạn này quyết tâm phục vụ Thiên Chúa. Trong các anh em
đă làm
Linh Thao, Javier cứng đầu nhất, nhưng
khi đă
mở ḷng th́
cũng là người
nhiệt thành nhất.
Lúc đó
cha có ư duy tŕ nhóm người
đă quyết
tâm phụng vụ Thiên Chúa, nhưng
không muốn t́m thêm người để tiện việc học hành. Cha không hề kêu
gọi lập một nhóm, rồi mời người này người kia gia nhập. Cha kết thân
với từng người riêng rẽ và tiếp tục đều đặn gặp gỡ riêng từng người.
Mỗi sáng Chúa Nhật, cha và các bạn dự lễ chung. Sau đó,
họ gặp gỡ và
trao đổi. Dần dần, có người bỏ, có người giữ. Khoảng mùa Chay năm
1534, cha và 6 người
bạn cùng chí hướng liên kết với nhau thành một nhóm "bạn trong Chúa":
Phêrô Favre, Phanxicô Javier, Simăo Rodrigues, Diego Laínez, Alfonso
Salmeron, Nicholas Bobadilla. Laínez và Salmeron, cha đă
quen ở Acalá. Lần lượt cha hướng dẫn từng người tập Linh Thao,
khởi đầu là Phêrô Favre vào tháng 1 và kết thúc với Phanxicô Javier
vào tháng 9. Kết quả tất cả đều muốn theo Đức Kitô trong thanh bần và
tận hiến để phục vụ tha nhân.
Trong những ngày mùa
hè được nghỉ học, nhóm trao đổi với nhau về Hội Thánh, về tương
lai. Dần dần
một dự tính chung thành h́nh: tất cả sẽ làm linh mục và đi
hành hương
Giêrusalem. Quyết
tâm và dự tính ấy được diễn tả qua lời khấn tại
Montmartre ngày
15/8/1534. Lúc đó
nhóm chỉ mới
có Favre là linh mục. Nhóm "bạn trong Chúa"của cha có bảy người, kể cả
cha, quyết định sống đơn
sơ
khó nghèo, khiết tịnh và đi
hành hương
Đất Thánh.
Nhóm dự định sẽ đi
Venezia và từ
đó sẽ
đến Giêrusalem. Nếu không được phép ở lại Giêrusalem nhóm sẽ trở về
Roma tŕnh diện vị đại diện Chúa Kitô để Ngài sai chúng tôi làm việc
những nơi
Ngài nhận thấy Thiên Chúa sẽ được vinh quang hơn
và các linh hồn được lợi ích hơn.
Tại Paris, cha bị đau
dạ dày trở
lại. Cứ mười lăm
ngày cha lại
đau và kéo
dài suốt hơn
một tiếng. Có
lần cha đau
suốt mười sáu,
mười bảy tiếng. Bệnh t́nh trở nên càng ngày càng trầm trọng, không t́m
được cách nào chữa trị, mặc dù đă
thử nhiều cách. Các y sĩ
nói rằng chỉ
có khí hậu ở quê nhà mới có thể giúp cha khỏi bệnh. Các bạn cũng
bảo như
thế và khuyên
cha về quê. Cuối cùng cha chiều ư các bạn. V́ có một số bạn gốc Tây
Ban Nha cần giải quyết một số vấn đề gia đ́nh
nên cha t́nh nguyện về quê lo giùm và hẹn gặp các bạn ở Venezia để cùng đi
Giêrusalem.
Cha rời Paris năm
1535, một
ḿnh cỡi ngựa về Tây Ban Nha. Lo xong việc, cha t́m đường lên Venezia
họp mặt với nhóm. Lúc này nhóm của cha có thêm ba người mới. Họ đă
tụ họp tại Venezia vào đầu năm
1537 và chia nhau giúp việc
tại các nhà thương.
Hai, ba tháng sau tất cả lên đường đi
Roma nhận
phép lành của Đức Thánh Cha để đi
Giêrusalem (lúc
đó
không có cha). Tại
Venezia, những người chưa
làm linh mục th́ được chịu chức thánh. Họ chịu chức với tư
cách các tu sĩ
thanh bần
khấn đời khiết tịnh và nghèo khó. Nhưng
nhóm cũng
chưa
phải là một ḍng tu, chỉ là một nhóm thân hữu."
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Đoàn
Giêsu Hữu
(1538-1540)
Cha I-nhă kể tiếp: "V́
năm
đó
chính quyền
Venezia đă
đoạn
giao với đế quốc Thổ Nhĩ
Ḱ, nên không có tàu nào
đi
Trung Đông.
Thấy không có
hy vọng đi
Giêrusalem trong một tương
lai gần, nên chúng tôi đă
chia nhau đi
các vùng xứ
Venezia mà chờ một năm
như
đă
dự định trước
kia. Hết năm
chờ tàu, mà
không đi
được nên các
bạn đồng hành quyết định đi
Roma. Lần này
cha cũng
đi
v́ lần trước
khi các bạn đi
Roma lần đó
không có cha. Chúng tôi chia làm ba, bốn
nhóm.
Cha đi
trước với
Phêrô Favre và Diego Laínez. Trong chuyến đi
này, cha được Thiên Chúa thăm
viếng một
cách hết sức đặc biệt. Cha đă
quyết định
sau khi chịu chức linh mục, sẽ không làm lễ suốt một năm,
để chuẩn bị
và cầu xin Đức Mẹ đặt cha đến cùng Chúa Con. Một hôm khi c̣n cách xa
Roma mấy dặm, đang
khi cầu
nguyện trong một nhà nguyện ở La Storta, cha nhận thấy một sự thay đổi
lớn lao trong tâm hồn, và có một thị kiến rơ ràng là Chúa Cha gửi gắm
cha cho Chúa Kitô, con của Ngài. Cha không thể nào nghi ngờ điều đó
chỉ biết rằng Chúa Cha đă
gửi cha cho
Chúa Con. Cha không biết điều
này có ư nghĩa
ǵ, nhưng
vẫn tin tưởng
và phó thác.
Tại Roma, cha và các
bạn thực hiện một số việc bác ái, như
việc dạy giáo lư, mở các cô nhi viện và nhà Thánh Marta dành
cho những người phụ nữ lầm lỡ. Lễ Giáng Sinh năm
1538, cha dâng lễ
mở tay trong Đền thờ Đức Bà Cả (St Maria Maggiore) taị nguyện đường
Máng cỏ. V́ cha đă
không được
dâng lễ mở tay ở chính nơi
Chúa sinh ra, th́ nơi
đây
cũng
là niềm an ủi
cho cha.
Muà chay năm
sau (1539), cha mời
tất cả các bạn đồng chí hướng về Roma để bàn về tương
lai của nhóm.
V́ không đi
được
Giêrusalem, chúng tôi cần t́m một hướng đi
mới cho nhóm.
Nhớ lại thị kiến ở La Storta, cha tin rằng nhóm được mời gọi để đồng
hành cùng Chúa Kitô. Chúng tôi cầu nguyện với nhau trong nhiều tuần và
cùng bàn hỏi và nhận định, chúng tôi quyết định giữ các lời khấn khiết
tịnh, khó nghèo và vâng phục để nên giống Chúa Kitô hơn.
Chúng tôi quyết
định đặt cả nhóm dưới sự lănh đạo của Đức Thánh Cha để đi
bất cứ nơi
đâu
Hội Thánh cần. Đức Thánh Cha nhờ chúng tôi dạy Kinh thánh,
thần học và giảng thuyết và phụ trách một số việc bác ái ở Roma như
chúng tôi đă
làm. Hơn
một năm
sau, ngày 27 tháng 9 năm
1540, Đức
Phaolô III chính thức chuẩn nhận chúng tôi là một ḍng tu. V́ chúng
tôi gọi nhau là các Giêsu Hữu, các bạn đồng hành của Chúa Giêsu (compania
de Jesús), danh xưng
chính thức
bằng tiếng Latinh là ‘Societatis Jesu.’
Cha được anh em bầu
làm bề trên tiên khởi. Cha nhất định từ chối và xin anh em cầu nguyện
và bầu lại. Sau mấy ngày cầu nguyện và nhận định, cha lại đắc cử lần
thứ hai. Cha linh hướng buộc cha phải vâng theo ư Chúa. Ngày 22 tháng
4 năm 1541
tại Đền thánh
Phaolô ngoại thành, cha và các anh em tuyên khấn các ba lời khấn ḍng
như các tu
sĩ
khác cộng
thêm lời khấn vâng phục Đức Thánh Cha trong sứ mệnh."
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Những năm
cuối tại Roma
(1541-1556)
Tôi hỏi tiếp: "Các
người bạn tiên khởi của cha có giúp cha điều hành hội ḍng không?"
Ngài nhắm mắt một
lúc rồi nói: "Khi ḍng chính thức được thành lập th́ nhóm của cha từ
từ mỗi người nhận một sứ vụ riêng. Phanxicô Javier đi
truyền giáo
miền viễn đông
và cha chẳng
c̣n gặp lại anh ta nữa. Phêrô Favre đi
sang Đức rồi Tây Ban Nha. Laínez th́ làm bề trên của các nhà ở Ư
và là thần học gia ở công đồng
Trento. Và những người khác cũng
lần lượt rời
Roma, mỗi người một ngả. Cộng đoàn
của cha là
cộng đoàn
lưu
động như
các tông đồ
thưở xưa.
Bây giờ c̣n
một ḿnh cha ngồi đây
gần 15 năm
nay lo điều
hành hội ḍng viết thư
và trả lời
các thư từ
và báo cáo của anh em khắp nơi
gửi về. Từ
con số nhỏ nhoi 10 người năm
xưa,
nay (1556) đă
gần 1000
Giêsu Hữu rồi.
Bây giờ cha bận rộn
nhiều, mà sức khoẻ ngày càng kém. Cha cũng
chẳng đi
lại nhiều nữa. Cha phải hy sinh hết công việc mục vụ bên
ngoài mà cha yêu thích để soạn các tài liệu nền tảng cho ḍng. Quyển
Linh Thao cũng
đă
được viết,
dịch và in bằng tiếng Latinh năm
1548 để làm
tài liệu huấn luyện cho anh em. Hiến pháp ḍng cũng
đă
tạm xong.
Phần lớn thời giờ của cha bây giờ là để đọc báo cáo và trả lời thư
từ của các
anh em khắp nơi
gửi về, từ
Brazil đến Nhật Bản. Chưa
kể thư
từ với các
cộng sự viên, ân nhân của ḍng, cũng
như
với giáo
triều Roma nữa. Cha phải nhờ cha Polanco giúp làm thư
kư cho cha."
Tôi hỏi ngài: "Cha
soạn hiến pháp ḍng như
thế nào?"
Cha I-nhă trầm ngâm:
"Được chuẩn nhận rồi th́ có nhiều việc phải lo. Một tổ chức cần phải
có nội quy để điều
hành. Rồi phải đối diện với những sức ép từ bên ngoài cũng
như
trong anh em. Làm sao cho ḍng phát triển?
Làm sao để huấn luyện người mới? Nhiều việc lắm.
Lúc soạn hiến pháp
Cha thường áp dụng phương
pháp dưới đây:
Mỗi ngày, Cha
dâng Lễ, tŕnh bày ư định điều
lệ đang viết
và cầu nguyện về điều
đó. Mỗi
lần dâng Lễ và cầu nguyện th́ không cầm được nước mắt. Cha cũng
hay nhận được các thị kiến lúc đang
làm Lễ và khi
soạn thảo hiến pháp ḍng. Phần nhiều diễn tả các thị kiến chuẩn xác
những điều
lệ trong hiến pháp, có khi thấy Chúa Cha, có khi cả Ba Ngôi, có khi
Đức Mẹ đang
cầu bầu hoặc
đang phê
chuẩn các điều
lệ. Có một lần, khi đang
nhận định về
một điều
lệ trong luật ḍng là các nhà thờ của ḍng có nên có nguồn lợi riêng
không. Lần đó,
cha đă
dùng 40 ngày
để nhận định và làm lễ mỗi ngày cho ư chỉ trên. Trong suốt những thánh
lễ ấy, cha đă
khóc rất
nhiều v́ thấy Chúa thương
ḿnh quá."
Tôi gật đầu: "Con
thấy cha thật sự sống kết hợp với Chúa. Nh́n lại quăng đời đă
qua cha thấy
được điều
ǵ?"
Ngài đáp:
"Cha theo Chúa nhiều
năm và biết
ḿnh mắc nhiều lỗi lầm với Chúa, nhưng
Chúa vẫn thương.
Từ ngày bị
thương
ở Pamplona
đến nay, mấy chục năm
dài mà cha vẫn
ngỡ như
ngày hôm qua. Mỗi
ngày cha làm phút hồi tâm để t́m kiếm Chúa trong mọi sự và cố gắng
phụng sự Chúa để vinh quang của Ngài được tỏ rạng hơn.
Không phải
ngẫu nhiên mà cha cha chọn khẩu hiệu "Để Danh Chúa Cả Sáng Hơn"
(Ad Majorem Dei Gloriam). Kinh nghiệm
thiêng liêng của cha có thể được đúc
kết trong
phần dẫn nhập của sách Linh Thao, điều
mà cha gọi là ‘Nguyên Lư và Nền Tảng’.
Năm
nay cha đă
gần 65 tuổi,
cha lại bị bệnh gan. Không biết Chúa c̣n cho cha sống được bao lâu nữa,
nhưng mỗi
ngày cha vẫn cố gắng dâng cuộc sống của cha cho Chúa. Cha thường cầu
nguyện thế này:
Lạy Chúa, xin hăy nhận lấy tất cả
sự tự do, trí nhớ, trí hiểu và tất cả ư chí của con.
Tất cả những ǵ con có và sở hữu đều do Chúa ban cho con.
Con xin dâng lại Chúa tất cả để Chúa hoàn toàn sử dụng theo tôn ư.
Con chỉ xin Chúa cho con t́nh yêu và ân sủng của Chúa.
Được như
thế con đầy
đủ lắm và không cần chi hơn."
Nói xong cha nhắm
mắt trầm ngâm và cầu nguyện.
Không muốn quấy rầy
ngài, tôi nhẹ nhàng bước ra ngoài và hít một hơi
dài. Bầu trời
Roma đă xế
chiều. Ánh tà dương
đang
lịm tắt và
thành phố đă
lên đèn.
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Cha I-nhă bị đau
bao tử đă
nhiều năm
và khi đến
Roma, ngày càng tệ hơn.
Một buổi chiều muà hè năm
1556, cha I-nhă thấy
không được khoẻ lắm. Ngài nhờ cha thư
kư Polanco đi
xin phép lành của
Đức Giáo Hoàng v́ biết giờ của ḿnh đă
gần đến.
Trước đó y
sĩ
đến khám và
nghĩ rằng
cha I-nhă chỉ hơi
mệt thôi nhưng
sẽ qua khỏi.
Tin lời y sĩ,
cha Polanco nhắc
cha I-nhă rằng cha cần phải viết nhiều thư
và gửi đi
ngày hôm sau.
Sáng mai cha sẽ đi
qua phủ giáo hoàng xin phép lành. Cha I-nhă muốn cha
Polanco đi
chiều hôm đó,
nhưng
ngài không ép.
Đêm
hôm đó,
cha I-nhă trở
bệnh. Cha Polanco chạy gấp sang phủ giáo hoàng nhưng
không kịp.
Khi mọi người đến th́ cha I-nhă đă
ra đi
trong b́nh an
rạng sáng ngày 31/7, hưởng thọ 65 tuổi.
Ngài được phong chân
phước ngày 27 tháng 7 năm
1609, và Đức
Gregory XV tôn phong ngài lên bậc hiển thánh cùng với Phanxicô Xavier
vào ngày 12 tháng 3 năm
1622. Hội
thánh hoàn vũ
kính nhớ ngài vào đúng
ngày ngài qua
đời, 31/7.
Nhân dịp lễ giỗ lần
thứ 450 của cha I-nhă
Antôn-Phaolô, SJ
|
|
|