ĐH 2006.02 | "Anh Em Sẽ Là Chứng Nhân Của Thầy."

 

Trang chính Bao DH 2006 2006-02
.

Tâm Sự Với Cha I-Nhă

An-Tôn Phao Lô, SJ

     
 

Du khách đến Roma không thể nào bỏ qua thánh đường "Il Gesù" (Chiesa del Gesù, Thánh Danh Chúa Giêsu), nhà thờ "mẹ" của ḍng Tên ở Roma. Nhưng bên cạnh ngôi thánh đường nguy nga xây dựng theo kiểu Baroque là một khu nhà nhỏ, nơi thánh I-nhă và các cộng sự viên tiên khởi của người đă sinh sống và làm việc từ năm 1544, sau khi ḍng Tên được chính thức hoạt động từ năm 1540.

n nhà này (góc đường Via d’Ara Coeli và Via di San Marco, khoảng 100 mét phía nam của Il Gesù) là cư sở thứ năm và cuối cùng của thánh I-nhă. Trong căn nhà đơn sơ xây bằng gạch và đá trát vôi, với những cột gỗ thấp lè tè và nền gạch đất nung thô sơ, cha I-nhă đă điều hành tất cả các hoạt động của hội ḍng cho đến khi người qua đời năm 1556. Nơi đây người đă cặm cụi viết và trả lời trên 7000 lá thư về đủ mọi đề tài, từ việc thiêng liêng cho đến xây dựng trường ốc. Đây cũng là nơi người soạn thảo Hiến Pháp ḍng (the Constitutions, 1549-1553) đặt nền tảng hoạt động cho ḍng.

Bước lên những bậc cầu thang ọp ẹp, tôi rẽ vào một hành lang nhỏ dẫn đến căn pḥng của người. Căn pḥng khá đơn sơ, ngăn làm đôi. Bên ngoài là pḥng làm việc, bên trong là pḥng ngủ. Một chiếc bàn cũ với một vài cái ghế gỗ đă bạc mầu thời gian. Đằng sau, ánh sáng vàng vọt chiếu lên bức tường. Giữa căn pḥng làm việc có trưng bày một tượng của thánh I-nhă bằng đồng đen, lấy mẫu từ gương mặt của người lúc mới qua đời (death mask). Tôi quỳ xuống và nhắm mắt lại cầu nguyện.

 

 
   
     
 

Nghe có tiếng động khe khẽ, tôi mở mắt ra và nh́n về bàn làm việc. Đằng sau ngọn đèn dầu leo lét, một người đàn ông đang cặm cụi viết. Chiếc trán hói và cái mũi khoằm chỉ gặp một lần chắc khó quên. Tôi nhận ra người ngay. Tôi rụt rè tiến đến. Người đàn ông ngửng lên, mỉm cười và nói với tôi: "Anh đến thăm cha hả? Đợi cha một tí nhé!" Nói xong, người kư tên vào miếng giấy c̣n đang viết dang dở — Ignatius. Chữ viết khá đẹp, sắc nét.

"Ngồi xuống đây", người khoát tay bảo tôi ngồi, rồi đứng dậy bước về chiếc ghế gỗ gần đó. Cha I-nhă không cao lắm, người gầy g̣, đi lại hơi khập khiễng. Hỏi han tôi một hồi rồi người nheo mắt nh́n tôi: "Anh đến t́m cha có việc ǵ không?" Tôi ấp úng: "Con biết cha rất bận. Nhưng con xin cha nếu có thể được, cho con phỏng vấn một tí cho báo Đồng Hành được không ạ?" Người cười xoà: "Phỏng vấn à, thế con muốn biết điều ǵ?"

Tôi móc sổ tay và liếc qua những câu hỏi đă dọn sẵn. Nhưng không hiểu tại sao tôi lại thưa với người: "Xin kể cho con nghe về cuộc đời của cha." Cha I-nhă nheo mắt: "Điều này th́ cha thư kư Luis Goncâlves da Câmara đă viết lại rồi mà." Tôi phản đối: "Con biết thế, nhưng con vẫn muốn nghe từ cha cơ! Cha có thể kể một chút về gia đ́nh của cha không?"

 

 
   
     
 

Thiếu thời (1491-1521)

Cha I-nhă lim dim đôi mắt: "Cha sinh ra ở Loyola thuộc miền Guipúzcoa xứ Basque trong một gia đ́nh trung lưu. Cha là con út của một gia đ́nh khá đông anh chị em — 13 người cả thảy. Tên cúng cơm của cha là Inigo López de Loyola. Mẹ cha mất sớm, cha lớn lên dưới sự chăm sóc của bà vú Maria. Khi cha lên 7 tuổi, anh hai Martin Garcia của cha kết hôn, cha về sống với anh chị."

Tôi hỏi ḍ: "Con nghe nói hồi trẻ cha cũng quậy lắm?"

Người cười xoà: "Đúng thế. Hồi nhỏ cha rất ham chơi và biếng học. Tuy nhỏ con, nhưng cha hay họp bạn với bọn nhóc ở gần lâu đài Loyola, chia phe đánh trận. Sợ cha lêu lổng không nên thân, khi cha được 16 tuổi, gia đ́nh gửi cha vào học việc với quan đại thần Juan Velazquez, thủ quỹ của triều đ́nh Tây Ban Nha. Sẵn môi trường giao tiếp với quan chức triều đ́nh cha được học nhiều thứ: quản trị, kiếm thuật, khiêu vũ, giao tiếp, ca nhạc, văn thơ. Nhưng cha mê nhất là đánh bạc, đấu gươm và lấy ḷng các tiểu thư.

Tính cha cũng nóng nảy và hay gây gỗ lắm. Cha c̣n nhớ có lần cha và một ông anh gây lộn với một gia đ́nh quư tộc khác. Tụi cha phục kích họ, làm cho mấy người bị trọng thương. Cha phải đi trốn. Vụ này khá rắc rối v́ bên kia thưa kiện ra ṭa. Cha nại lư do cha đă chiụ "phép cắt tóc" thuộc về hàng giáo sĩ nên được miễn trừ khỏi toà đời. Có mấy người làm chứng rằng cha luôn mặc giáp phục, đeo dao kiếm, nào có thấy cha mặc áo chùng thâm. Vụ này kéo dài cả tháng. Nhưng v́ thế lực gia đ́nh của cha khá mạnh, nội vụ cũng chẳng đi đến đâu.

Thật ra có bao giờ cha muốn làm giáo sĩ đâu, cha thích vơ nghệ và công danh hơn! Chẳng qua là theo phong tục Basque, người con trai cả trong gia đ́nh hưởng quyền thừa kế. Những người con khác được cha mẹ thu xếp hoặc tự lo lấy. Con gái th́ dễ: về nhà chồng. Con trai có ba đường tiến thân: triều đ́nh, hàng hải và giáo hội. Thường người con trai út làm linh mục để hưởng giáo bổng. Đúng ra là người anh kế của cha, Péro López đă được gia đ́nh chỉ định làm linh mục rồi, nhưng gia đ́nh cha "bảo trợ" giáo xứ Azpeitia, nên cũng muốn cha gia nhập hàng giáo sĩ để "pḥng hờ" giáo bổng khỏi lọt ra người ngoài, nếu anh Péro chết sớm."

Tôi hỏi: "Vậy nên cha chọn đường binh nghiệp? Con nghe nói cha đă từng chỉ huy trận đánh với quân Pháp ở thành Pamplona tháng 5 năm 1521."

Người lắc đầu: "Cũng không hẳn là như thế. Cha cũng chẳng phải là một nhà binh chuyên nghiệp. Chỉ được cái gan ĺ. Năm đó, cha được 30 tuổi, cái tuổi ‘tam thập nhi lập’ ấy mà. Cũng muốn có tí công danh để đời chứ ăn bám gia đ́nh hoài th́ cũng kỳ. Mà con đường nhanh nhất để tiến thân là chiến công. Cha đến phục vụ cho phó vương xứ Navarra, vùng tranh chấp của Pháp và Tây Ban Nha. V́ có nội loạn trong triều, nên người Pháp thưa cơ chiếm thành Pamplona, thủ phủ của Navarra. Cha xung phong giữ thành Pamplona dù biết lực lượng quân Pháp khá mạnh. Người Pháp nă đại bác vào thành, tổn thất khá nặng. Chỉ huy trưởng của cha định đầu hàng, nhưng cha nhất định tử thủ đến cùng. V́ danh dự và vinh quang: sĩ khả sát, bất khả nhục. Cha bị trúng một quả đại pháo bị thương nặng, tưởng chết luôn.

Lúc tỉnh dậy th́ thấy ḿnh đang ở nhà. Th́ ra người Pháp đă băng bó và cho người đưa cha về lâu đài Loyola. Không hiểu tại sao họ lại không bắt cha làm tù binh. Có lẽ v́ họ thấy cha gan ĺ chăng, hay tội nghiệp cha th́ cũng không rơ. Chỉ biết rằng lúc bấy giờ chân phải cha bị găy lià đang bó bột, chân trái th́ bị dập xương."

Tôi hỏi tiếp: "Vậy cha phải mất bao lâu mới đi lại được?"

Cha I-nhă kể: "Người Pháp chỉ băng bó sơ nên vết thương làm độc và không lành. Bác sĩ gia đ́nh phải mổ chân ra kéo xương ống ra sắp lại. Không có thuốc tê, đau muốn chết nhưng cha cắn răng chịu. Lúc đó cha bị sốt cao, bác sĩ sợ cha không qua khỏi, nói người nhà chuẩn bị hậu sự. Nhưng mà Chúa cũng thương nên rồi chân cũng lành. Nhưng khi tháo bột th́ cha buồn kinh khủng. Mẩu xương ống quyển ḷi ra khỏi đầu gối, chân phải ngắn hơn chân trái, rất khó coi. Hồi đó trang phục của các công tử là áo phồng tay, quần chẽn để hở đầu gối, mang giày và đội mũ. Phải là mũ đỏ, v́ đó là dấu hiệu đặc biệt của ḍng họ Loyola. Lại phải cài một cái lông ngỗng trên mũ phía tay trái và đeo kiếm bên hông trái. Cái chân kiểu đó th́ làm sao mặc quần chẽn được. Thà chết c̣n hơn! Cha nhất định bắt bác sĩ phải cưa cái mẩu xương ḷi ra và dùng dây và kẹp gỗ kéo ra cho chân phải dài ra. Cũng không có thuốc tê. Đúng là phù phiếm hăo huyền của tuổi trẻ."

Nói rồi người vén ống quần, đưa chân cho tôi coi. Một vết sẹo sâu hoắm dưới đầu gối. Bây giờ tôi mới hiểu rằng tại sao người đi khập khiễng, chân thấp chân cao.

 

 
   
     
 

Thanh Tẩy (1521-1522)

Tôi nh́n người ái ngại: "Chắc lúc đó cha thất vọng lắm nhỉ? Vậy cha làm ǵ cho hết giờ?"

Người lắc đầu: "Chúa làm việc thật lạ lùng. Lúc đó cha nản lắm, như thằng què nằm trên giường bệnh, không biết ḿnh sẽ làm ǵ nữa. Cha muốn đọc truyện cho khuây khoả. Khổ nỗi trong nhà chẳng có truyện kiếm hiệp hay truyện phiêu lưu t́nh cảm, mấy thứ sách mà cha ưa chuộng. Bà chị dâu đạo đức của cha, chị Magdalena người mà cha coi như người mẹ thứ hai v́ đă nuôi dậy cha, đưa cho cha quyển Truyện Các Thánh và Cuộc Đời Chúa Cứu Thế. Lúc đầu cha không muốn đọc mấy thứ sách khô khan đó, nhưng chán không có ǵ đọc thành ra lâu lâu cha mở vài trang xem cho đỡ buồn. Đọc đi đọc lại, đôi khi cha cũng cảm thấy thích thú.

Pḥng cha ở có một cửa sổ nh́n ra vườn. Cha hay ngồi hàng giờ ngắm trời ngắm đất rồi để trí tưởng tượng của ḿnh phiêu lưu. Có khi cha mơ màng suốt ba bốn tiếng đồng hồ liền mà không hay. Cha tưởng tượng đến những công việc mà cha sẽ làm để lấy ḷng một công nương, rồi cách thức để đi đến nơi nàng ở, những bài thơ và những lời lẽ cha sẽ nói với nàng, và cả những chiến công hiển hách để dâng tặng nàng.

Có lúc cha cũng suy nghĩ về những điều cha đă đọc. Cha thấy các thánh hay quá và thỉnh thoảng cha cũng tự hỏi ḿnh. Giá mà cha cũng làm được những việc như thánh Phanxicô hay thánh Đa-Minh đă làm. Cha thấy những việc lành ấy cũng không thấy khó khăn ǵ lắm. Mỗi lần như thế, cha lại tự nhủ: ‘Các thánh đă làm việc này th́ cha cũng phải làm được.’

Từ từ cha thấy có những phản ứng khác nhau. Lúc nghĩ đến chuyện đời, cha cảm thấy rất thích thú, nhưng khi hết nghĩ đến th́ lại thấy khô khan và trống rỗng. Trái lại lúc nghĩ đến làm các việc đạo đức và khổ hạnh như các thánh đă làm th́ lại thấy phấn khởi. Không những trong lúc nghĩ đến, mà cả khi hết c̣n nghĩ đến nữa, cha vẫn cảm thấy vui và hài l#̣ng. Hồi đó, cha không biết tại sao, chỉ lấy làm lạ về các phản ứng khác nhau đó. Sau này cha mới khám phá ra có hai thứ ảnh hưởng trên tâm hồn: một thứ do ma quỉ bày ra, c̣n một thứ khác do Thiên Chúa soi sáng.

Trong sáu tháng dưỡng thương đó, cha bắt đầu ư thức rằng Chúa đă cho cha một cơ hội mới và cha cần phải ăn năn hối cải. Một đêm kia, không ngủ, cha thấy rơ ràng h́nh ảnh Đức Mẹ cùng với Chúa Giêsu Hài Đồng. Khi thấy như vậy, cha cảm thấy rất hứng khởi một lúc khá lâu và ghê tởm tất cả cuộc sống quá khứ, đặc biệt là những chuyện xác thịt. Cha quyết định rằng khi nào khoẻ mạnh lại, cha sẽ đi tận Giêrusalem đồng thời tự đánh tội và nhịn ăn với tất cả ḷng sốt mến. Nhờ ước muốn thánh thiện này, các chuyện phù phiếm kia dần dần bị quên lăng. Cha từ từ thấy việc đọc sách thiêng liêng có ích lợi. Cha lấy một cuốn vở nhỏ và chép một số đoạn chính trong đời sống của Chúa và các Thánh mà cha đă đọc. Lúc đó suốt ngày cha chỉ lo chép sách và cầu nguyện và mong chóng được b́nh phục để đi Giêrusalem. Cha c̣n dự tính thêm sau khi đi Giêrusalem về, cha sẽ sống khắc khổ tại một đan viện khổ tu.

Khi nghi là cha ‘sắp có thay đổi lớn’, ông anh Martin t́m cách thuyết phục cha: ‘Mọi sự nơi em đều tuyệt, từ tinh thần, phán đoán, đến ḷng can đảm và tinh thần cao thượng. Em được vua chúa sủng ái, dân chúng quư mến, có vơ nghệ cao cường, lại khôn ngoan. Bao nhiêu hy vọng đẹp đẽ và chắc chắn trong lúc em c̣n trẻ và tương lai c̣n dài. Em tính xóa sạch sao? Em nỡ phụ ḷng bạn hữu sao? Em đă khởi động rất tốt, hứa hẹn sẽ cho gia đ́nh được rạng rỡ, em tính phủi tay hết sao? Anh hơn em về tuổi, nhưng em hơn anh về tài. Anh xin em suy nghĩ kỹ về điều em đang dự tính: coi chừng chẳng những em làm cho gia đ́nh mất vinh quang đáng được hưởng mà c̣n làm cho gia đ́nh phải tủi hổ nữa.’ Cha ừ ào cho xong, nhưng vẫn không đổi ư định.

Muà xuân năm sau (1522), thấy tạm khoẻ lại và có thể lên đường, cha nói với gia đ́nh sẽ dự tính đi thăm một vị công tước ở Navarete, người c̣n thiếu nợ gia đ́nh cha một số tiền. Xong việc, cha cưỡi la rời Navarete hướng về Montserat là nơi hành hương khá nổi tiếng ở vùng ấy.

Trên đường có một chuyện làm cha nhớ măi. Dù đă cố gắng ăn năn hoán cải, nhưng tính háo thắng của cha vẫn c̣n. Cha gặp một người Môrô (Tây Ban Nha theo đạo Hồi) và hai người nói với nhau chuyện này sang chuyện khác. Cuối cùng chúng tôi nói với nhau về Đức Mẹ. Người kia không tin là Đức Mẹ vẫn c̣n đồng trinh khi sinh con, mặc dù cha đă đưa ra nhiều lư lẽ để thuyết phục. Khi người ấy đi rồi, cha bắt đầu thấy bất bất măn với chính ḿnh, v́ cho rằng cha đă không làm đủ bổn phận, đồng thời cảm thấy nổi giận v́ đáng lư cha không thể để một người ngoại đạo nói những điều chướng tai về Đức Mẹ như thế. Máu tự ái nổi lên và cha tính chạy theo người Môrô cầm dao găm đâm hắn mấy cái. Cha phải ‘bảo vệ danh dự’ của Đức Mẹ chứ! Nhưng cha do dự một lúc lâu, không biết bổn phận đ̣i hỏi ḿnh nên làm ǵ. Tới ngă ba, cha thả cương con la để nó đi tự do: nếu con la quặt vào đường làng, cha sẽ kiếm người Môrô và sẽ đâm hắn, c̣n nếu nó tiếp tục đi trên con đường chính, th́ cha sẽ bỏ qua. Nhưng Chúa đă khiến con lừa bỏ con đường làng, và tiếp tục đi vào con đường chính. Lúc đó cha mới hối hận, tại sao chỉ v́ tính háo thắng và cha suưt giết người.

Tới tu viện của các cha Biển Đức ở Montserat, sau khi cầu nguyện, và bàn hỏi với một cha linh hướng, trong ba ngày cha viết ra mọi tội lỗi trên một tờ giấy rồi xưng tội. Cha giữ lại con la, c̣n cái gươm và con dao găm th́ cha treo trên bàn thờ Đức Mẹ. Vào buổi tối ngày hôm trước lễ Đức Mẹ Truyền Tin (25-3), cha thay đổi quần áo với một người nghèo, mặc áo thô như đă ước ao, trở về nhà thờ gậy cầm trên tay, khi qú, khi đứng mà canh thức suốt đêm trước bàn thờ Đức Mẹ.

Sau đó cha dự định xuống Barcelona để đáp tàu đi hành hương đất thánh."

 

 
   
     
 

Cảm nghiệm ở Manresa (1522-1523)

Tôi ngắt lời: "Nhưng trên đường đi Barcelona, h́nh như cha c̣n ghé Manresa khá lâu. Cha dự định làm ǵ ở đó?"

Cha I-nhă trầm ngâm: "Thật ra, lúc đầu để tránh người quen, cha ghé Manresa, định ở lại đó vài ngày trọ tại nhà thương Santa Lucia, để nghỉ ngơi chuẩn bị cho cuộc hành tŕnh dài đi Đất Thánh. Nhưng cuối cùng th́ cha đă sống ở đó gần 10 tháng. Cha dọn vào một cái hang gần bờ sông Cardoner, ngày ngày đi khất thực, ăn chay và sống khổ hạnh. Lúc này cha không c̣n để ư đến sắc diện bề ngoài nữa: ăn mặc sơ sài, để tóc mọc lên tự nhiên, không cắt không chải; móng tay và móng chân cũng vậy. Cha ăn uống thất thường, ngủ nghỉ không đủ, lại làm việc không ngừng, nên cha ngă bệnh nặng hai lần, lần trước vào mùa hè, lần sau vào mùa đông. Tưởng chừng đă không qua khỏi.

Lúc đầu cha thấy việc khổ chế và hăm ḿnh đem lại cho cha phấn chấn, nhưng lần hồi cha thấy chán nản và tuyệt vọng. H́nh như có ai nói trong thâm tâm: ‘Làm sao anh có thể chịu đựng một cuộc đời cực khổ như thế này suốt những năm c̣n lại trong đời anh?’ Biết rằng đó là sự cám dỗ cha cương quyết chống trả, và quyết tâm khổ chế hơn nữa. Có nhiều lúc cha cảm thấy bối rối khủng khiếp v́ những tội lỗi cha đă phạm. Dù đă ăn năn và xưng thú nhiều lần nhưng cha vẫn không thấy an tâm. Mặc dù biết rằng ḷng bối rối gây hại cho ḿnh, và nên vượt qua t́nh trạng đó, cha cũng không làm sao thoát khỏi. Hồi đó mỗi ngày cha quỳ gối cầu nguyện suốt bảy tiếng đồng hồ, ăn chay đánh tội. Tuy nhiên, những việc đó không giải quyết được ḷng bối rối đă gây khổ sở cho cha trong nhiều tháng. Có lần cha đă nhịn ăn cả tuần để xin ơn thoát khỏi t́nh trạng này. Nhưng có b́nh an được mấy bữa rồi cha lại nhớ đến các tội cũ và cảm thấy phải xưng tội đó lại một lần nữa. Cha cảm thấy chán ngấy đời sống khắc khổ và ao ước dứt khoát bỏ cuộc luôn.

Một hôm quá khổ tâm, cha rên rỉ lớn tiếng cầu cùng Thiên Chúa: ‘Lạy Chúa, xin Chúa cứu thoát con v́ con không t́m thấy giải pháp nhờ loài người hay bất cứ cái ǵ khác. Nếu hy vọng t́m được, con sẵn sàng chịu mọi cực khổ không tiếc. Xin Chúa chỉ cho con t́m ra giải pháp, dù phải chạy theo một con chó con để nó giúp con t́m thấy, con cũng sẵn sàng chạy!’ Nhiều lần cha bị cám dỗ kịch liệt muốn tự tử, nhưng biết việc tự tử là tội, cha lại kêu lớn tiếng rằng: ‘Lạy Chúa, con không muốn làm điều ǵ mất ḷng Chúa.’ Nhưng lúc đó, Chúa thương giúp cha tỉnh trí khỏi ác mộng. Nhờ Chúa đă dậy vài bài học và cho thu lượm kinh nghiệm về cách thức nhận định các thần loại khác nhau, cha bắt đầu phân tích các tư tưởng vừa qua từ đâu mà đến, và cuối cùng dứt khoát không c̣n xưng tội cũ nữa. Từ ngày hôm đó, cha thoát được cơn bối rối và xác tín rằng chính ḷng thương xót của Chúa đă cứu thoát cha.

Ngoài việc cầu nguyện suốt bảy tiếng đồng hồ mỗi ngày, cha đi thăm những người bệnh và nói chuyện về đời sống thiêng liêng. Thời giờ c̣n lại trong ngày, cha nghĩ đến Thiên Chúa và nhớ lại những điều đă suy gẫm hoặc đọc trong sách. Đôi lúc cha ghi chép lại một số ư tưởng vào cuốn sổ tay cha đă mang theo từ Loyola. Cuốn sổ tay này giúp cha khá nhiều. Hồi đó Chúa đối sử với cha như thày giáo dạy học tṛ. Trong thời gian này, Chúa đă cho cha nhiều thị kiến về Thiên Chúa Ba Ngôi, sự sáng tạo, sự hiện diện của Đức Kitô trong thánh thể, và Đức Mẹ. Tuy nhiên cha cũng không biết cách giải thích những điều đó, và không nhớ rơ được những hiểu biết thiêng liêng mà Chúa đă in vào tâm hồn cha.

Đặc biệt có một hôm cha đi đến một nhà thờ cách Manresa chừng một dặm để cầu nguyện. Trên con đường song song với một con sông, cha vừa đi vừa đọc kinh, rồi lại ngồi xuống, mắt hướng về ḍng nước chảy dưới thung lũng. Đang khi ngồi tại đó, mắt tâm hồn cha dần dần mở ra. Mặc dù không có một thị kiến cha đă am tường nhiều điều. Cha cảm thấy có dưới một luồng sáng rực rỡ soi vào tâm hồn khiến mọi điều trở nên mới mẻ. Cha không nhớ rơ chi tiết, nhưng tính chung, tất cả những ǵ Chúa ban và những điều cha học hỏi suốt cả cuộc đời cũng không bằng những điều cha đă lĩnh hội qua các cảm nghiệm tại Manresa."

Tôi hỏi: "Con nghe nói sách Linh Thao được cha sáng tác trong giai đoạn này?"

Cha I-nhă trả lời: "Không hẳn là như thế. Cha bắt đầu ghi lại những cảm nghiệm thiêng liêng và chép Lời Chúa từ những ngày c̣n dưỡng thương ở Loyola. Khi ở Manresa, cha chép thêm những kinh nghiệm mới được rút tỉa trong những giờ cầu nguyện và khi tṛ chuyện thiêng liêng với những người cha gặp gỡ khi thăm viếng các bệnh nhân, đặc biệt là những kinh nghiệm phân biệt thần loại. Cha ghi lại những điều này v́ cha ao ước giúp người khác gặp gỡ Chúa và được Người thanh tẩy như Người đă làm với cha. Cuốn sổ tay nhỏ của cha sau này được bổ sung thêm, và sắp xếp lại cho mạch lạc khi cha đi học ở Paris."

 

 
   
     
 

Hành Hương và Trở Về Đi Học (1523-1524)

Tôi ngạc nhiên: "Đi học ở Paris? Chẳng phải cha đă muốn ở lại Đất Thánh sao? Chuyện ǵ đă xảy ra?"

Cha I-nhă cười: "Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Ư con người sao qua khỏi ư Trời. Khi khoẻ lại một chút đầu năm sau (1523), cha lên đường đi tới Barcelona. Đây là thời gian thuận tiện để đáp tàu từ Barcelona sang Ư, xin phép Đức Thánh Cha tại Roma, rồi phải đến Venezia vào mùa hè để đáp tàu hành hương đi Giêrusalem. Mặc dù một số người đă t́nh nguyện đi với cha cho có bạn, nhưng cha quyết định đi một ḿnh v́ muốn thử tập ba nhân đức tin, cậy và mến. Nếu có bạn đồng hành, khi đói sẽ nhờ người đó giúp đỡ, lúc ngă sẽ nhờ người đó nâng lên, và như thế, cha sẽ tin cậy và thương mến người đó. Trong khi cha chỉ muốn tin cậy và yêu mến vào một ḿnh Chúa mà thôi. Qua nhiều thử thách cha cũng đến được Đất Thánh.

Cha có ư định ở lại Giêrusalem để viếng các nơi Thánh và đồng thời giúp đỡ các linh hồn. V́ thế cha đă đem theo sẵn vài lá thư giới thiệu với các cha bề trên ḍng Phanxicô là quản thủ các di tích ở thánh điạ. Nhưng các cha ở đó không muốn cha ở lại v́ sợ gánh nặng. Cha nhất định không làm phiền họ, nhưng nại lư do an ninh, các cha bề trên yêu cầu cha chuẩn bị lên tàu đi về với nhóm hành hương. Cha trả lời rằng cha đă nhất quyết rồi và sẽ không thay đổi ư kiến v́ bất cứ lư do ǵ. Nghe vậy, cha giám tỉnh ḍng Phanxicô cho biết ngài được quyền toà thánh ra lệnh trục xuất và rút phép thông công những người không vâng lời. Biết rằng không thể được, cha đành phải vâng lời.

Trên tàu về Venezia, sau khi thấy rơ ư Chúa không muốn cho cha ở lại Giêrusalem, cha luôn luôn cầm trí suy nghĩ phải làm ǵ bây giờ, và cha thấy hướng về việc đi học một thời gian để "giúp đỡ các linh hồn."

Tôi hỏi ḍ: "Lúc đó chắc cha thất vọng lắm nhỉ?"

Cha I-nhă trầm ngâm: "Thật sự cha cũng cảm thấy bị hụt hẫng. Trước khi đi Giêrusalem, cha lưỡng lự chưa biết sau đó khi hành hương nên vào một tu viện hay sống như một ẩn sĩ. Nhưng từ lúc đó, cha bỏ cả hai ư định ấy, và dứt khoát hiến thân cho việc tông đồ. Lúc ở Manresa, cha cảm thấy được thôi thúc "giúp đỡ các linh hồn." Nhưng giúp như thế nào, th́ cha cũng không rơ, bây giờ th́ thấy đi học th́ có thể trang bị thêm kiến thức để giúp các linh hồn nhiều hơn.

Thế là cha quyết định trở về Barcelona để đi học lại. Trước hết phải bắt đầu học lại La tinh, thứ ngôn ngữ của dân có học. Cha tŕnh bày ư muốn đi học với mấy người quen và một thày giáo tiểu học. Họ đều ủng hộ cha. Thầy giáo Ardevol t́nh nguyện dạy không công cho cha, c̣n cô Isabel t́nh nguyện kiếm phương tiện sống cho cha.

Ba mươi mấy tuổi đầu ngồi ê a chia động từ La tinh như các cậu học tṛ nhỏ, không phải là chuyện dễ dàng. Đôi lúc cha cảm thấy đi phục vụ người nghèo dễ hơn. Nhưng điều quan trọng là t́m ư của Chúa chứ không chiều theo sở thích của ḿnh. Cha trở về Manresa và bắt đầu học rất chăm chỉ. Tuy nhiên, có một vấn đề gây khó khăn cho cha: mỗi lần cha bắt đầu cố gắng học thuộc ḷng một bài nào, th́ lại có những tư tưởng mới về đời sống thiêng liêng và những tư tưởng này làm cho cha thích thú đến độ không thể nào học thuộc bài được. Cha cố gắng xua đuổi tư tưởng đó mà không được. Dần dần cha hiểu rằng đó là do ma quỷ cám dỗ. Sau khi cầu nguyện, cha đến gặp thầy giáo và tŕnh bày với thầy giáo kinh nghiệm nội tâm của cha với đầy đủ chi tiết và giải thích lư do tại sao cha rất chậm tiến trong việc học hành. Rồi cha hứa với thầy giáo sẽ không bao giờ bỏ học với thầy. Sau khi cương quyết hứa như vậy, cha không bao giờ c̣n bị cám dỗ nữa.

Học xong hai năm, thầy giáo nói bây giờ cha có thể theo lớp trung học được và nên đi học tại Alcalá. Lúc đó, cha thấy học được ǵ th́ học ngay. Cha chưa có chương tŕnh lâu dài, đến nơi đến chốn, mà chỉ muốn học tắt một số điều để có thể dạy giáo lư và hướng dẫn Linh Thao."

Tôi hỏi: "Vậy là cha đă bắt đầu hướng dẫn Linh Thao từ Alcalá. Chưa học triết học và thần học, cha có gặp rắc rối nào với giáo quyền không?"

Ngài gật đầu: "Đúng thế, ở Tại Alcalá, qua việc hướng dẫn Linh Thao và dạy giáo lư, cha gặt được nhiều hoa trái thiêng liêng và Danh Chúa v́ thế được cả sáng. Có nhiều người tiến khá xa trong đời sống thiêng liêng và trở nên sốt sắng. Nhiều người khác lại bị thử thách, mỗi người mỗi khác. Thiên hạ khắp vùng đồn đăi rất nhiều về cha. Những tiếng đồn đó đến tai Toà Án Tôn Giáo tại Tôlêđô. Khi các thanh tra đến tới Alcalá điều tra, v́ không t́m được ǵ sai lầm trong giáo lư và lối sống, nên cha và các bạn sinh viên được phép tiếp tục làm việc không ai làm khó dễ. Tuy nhiên v́ không phải là tu sĩ nên không ai được mặc đồng phục. Bốn tháng sau lại họ mở cuộc điều tra. Tuy nhiên lần đó họ không làm khó dễ nhóm của cha, không đ̣i ra toà và không nói năng ǵ cả sau khi vụ án chấm dứt. Mấy tháng sau, cha lại bị tống giam v́ có hai mẹ con thuộc hàng quư tộc đă đi hành hương âm thầm và xin ăn trên đường. Việc này đă gây xôn xao ở Alcalá. Người ta cho rằng cha đă thổi cho họ ư tưởng đó, nên cho bắt cha. Sau đó hơn một tháng th́, hai phụ nữ trở về, viên kiểm sát tới nhà giam đọc bản án rằng: ‘Không được giảng dạy đức tin cho đến khi học hành đủ trong thời gian bốn năm, v́ xét thấy chưa đủ kiến thức.’ Bản án khiến cha phân vân không biết phải làm ǵ. Người ta vô cớ ngăn cản không cho cha giúp các linh hồn chỉ v́ chưa học hành đầy đủ.

Cha và nhóm bạn quyết định đi Salamanca để tiếp tục theo đuổi việc học. Tại Salamanca, cha đă nhờ một linh mục Ḍng Đa Minh ở tu viện San Esteban làm linh hướng. Gần hai tuần sau, cha linh hướng gọi cha và một bạn sinh viên đến dùng cơm trưa tại tu viện. Dùng cơm xong, cha tu viện phó hỏi han cha về những điều cha giảng dạy. Cha thưa: ‘Có khi chúng con nói về nhân đức này hoặc nhân đức khác và khuyến khích người ta theo; có khi lại nói về các thói xấu khác nhau và lên án.’ Cha tu viện phó hỏi tiếp: ‘Các anh không có học, mà lại nói về các nhân đức và các thói xấu à. Người ta chỉ có thể nói về các đề tài đó hoặc v́ đă học hoặc v́ Chúa Thánh Thần soi sáng. Nhưng các anh không có học nên chỉ nói v́ có Chúa Thánh Thần soi sáng. Vậy chúng tôi muốn biết Chúa Thánh Thần đă soi sáng những ǵ?’ Nghe vậy, cha bắt đầu dè dặt v́ nhận thấy cách lư luận đó có ǵ không ổn. Im lặng một lúc, cha nói với họ cha không muốn bàn thêm về vấn đề đó nữa. Thấy rằng không thể bắt cha nói thêm điều ǵ, cha tu viện phó kết luận: ‘Được, đă vậy th́ cứ việc ở lại đây. Chúng tôi sẽ t́m cách bắt các anh khai hết.’

Ba ngày sau, cha và người bạn bị đưa đến nhà giam. Cả hai bị nhốt riêng và bị xiềng chung bằng một cái xích, mỗi người bị buộc một chân, và cái xích bị buộc quanh cái cột ở giữa pḥng. Các bạn của cha cũng bị bắt. Họ tra vấn cha về Linh Thao, và cha đưa cho họ tất cả tập vở để họ xem xét. Vài ngày sau, cha bị điệu đến trước mặt bốn thẩm phán. Cả bốn người xem xét bản Linh Thao và ḍ hỏi nhiều câu, không những về Linh Thao mà c̣n cả về những vấn đề thần học nữa. Thí dụ về Thiên Chúa Ba Ngôi và về phép Thánh Thể, để xem cha hiểu biết như thế nào. Cha trả lời rành mạch mọi điều đến độ các thẩm phán không thấy có điều chi đáng trách. Họ muốn biết làm sao cha cắt nghĩa lúc nào một hành vi xấu bị coi là tội trọng hay tội nhẹ. Sau ba tuần, họ ra phán quyết như sau: Trong lối sống cũng như trong giáo lư của nhóm cha, các thẩm phán không t́m thấy lỗi lầm nào. Vậy nhóm cha được tiếp tục dạy giáo lư và nói về Chúa như trước, với điều kiện là không bao giờ được quả quyết: ‘Đây là tội trọng, đây là tội nhẹ’ cho tới khi học xong bốn năm thần học.

Ngay lúc rời khỏi nhà giam, cha bắt đầu suy nghĩ và cầu xin Chúa chỉ cách giải quyết vấn đề. Ở lại Salamanca th́ cha sẽ gặp khó khăn: muốn giúp đỡ các linh hồn th́ gặp trở ngại v́ lệnh không cho quyết định đâu là tội trọng đâu là tội nhẹ. Do đó cha quyết định đi Paris học. Ở Salamanca và Barcelona, nhiều người người quen t́m cách thuyết phục cha đừng đi sang Pháp v́ chiến tranh đang diễn ra tại đó. Nhưng cha không hề cảm thấy sợ sệt."

 

 
   
     
 

Paris và nhóm thân hữu (1528-1535)

Tôi hỏi tiếp: "Cha bắt đầu có ư lập cộng đoàn từ lúc nào?"

Cha I-nhă trả lời: "Hồi ở Barcelona, khi suy xét có nên học hành và học trong thời gian bao lâu, cha cũng nghĩ đến vấn đề là sau khi học xong, cha nên đi tu hay đi khắp thiên hạ? Lúc suy tư về đời tu, cha thường nghĩ đến một ḍng nào suy đồi, chưa cải tổ để được gặp nhiều thử thách. Cha nhất mực tin rằng Chúa cũng sẽ cho cha đủ nghị lực để chịu đựng mọi sỉ nhục và xúc phạm sẽ gặp phải. Suốt thời gian tại Salamanca, cha vẫn ao ước giúp đỡ các linh hồn. Và để làm việc đó, cha phải để tâm vào việc học hành đầy đủ hơn, đồng thời qui tụ thêm một số bạn bè cùng chí hướng.

Cha đến Paris và đi học tại trường Montague để học lại chương tŕnh trung học, v́ hồi trước cha đă học quá vội, thiếu căn bản. Cha học chung với trẻ em theo phương pháp và chương tŕnh áp dụng tại Paris. Nửa năm sau, hết tiền cha phải ăn xin và rời nhà trọ. Vừa đi ăn xin, vưà đi học, cha chẳng tiến bộ được trong việc học hành. Khi bắt đầu đi học, cha lại bị thử thách như khi c̣n học tiểu học tại Barcelona. Mỗi lần nghe giảng bài cha không thể tập trung được v́ bị lo ra bởi các tư tưởng đạo đức. Thấy học như thế không có lợi ích bao nhiêu, cha tới gặp giáo sư và hứa sẽ không bao giờ bỏ một giờ học nào bao lâu c̣n kiếm được bánh ḿ ăn và nước uống đủ sống. Thấy cần phải có điều kiện tốt hơn, cha cố gắng hết sức đi t́m việc làm, chạy vạy nhờ vả khắp nơi. Sau cùng, v́ không t́m được việc ǵ, một tu sĩ góp ư kiến cho cha là mỗi năm đi tới xứ Flandres, ở lại đó hai tháng hoặc ít hơn, để quyên tiền sống suốt niên học. Sau khi cầu nguyện, cha thấy giải pháp này hay. Cha đi và mỗi năm đem về được một số tiền đủ để sống thanh bần.

Có đời sống tương đối ổn định, cha lại tiếp tục các cuộc đối thoại thiêng liêng hăng hái hơn trước. Đồng thời hướng dẫn Linh Thao cho các người bạn sinh viên ở trường Saint Barbe. Về những người bạn ở Salamanca, cha cũng đă cố gắng t́m cách để đưa họ sang Paris, nhưng cuối cùng việc cũng không thành. Năm 1529 cha đến ở trọ với hai bạn trẻ là Phêrô Favre và Phanxicô Javier, và hay nói chuyện thiêng liêng với họ. Favre gốc nông dân ở Savoie nên đơn sơ và dễ mến. Javier con nhà quư tộc lại giỏi nên cũng không thích tiếp cận với một anh vưà già tàn tật, lại hay bệnh hoạn. Mấy năm sau, qua Linh Thao cha thuyết phục được hai bạn này quyết tâm phục vụ Thiên Chúa. Trong các anh em đă làm Linh Thao, Javier cứng đầu nhất, nhưng khi đă mở ḷng th́ cũng là người nhiệt thành nhất.

Lúc đó cha có ư duy tŕ nhóm người đă quyết tâm phụng vụ Thiên Chúa, nhưng không muốn t́m thêm người để tiện việc học hành. Cha không hề kêu gọi lập một nhóm, rồi mời người này người kia gia nhập. Cha kết thân với từng người riêng rẽ và tiếp tục đều đặn gặp gỡ riêng từng người. Mỗi sáng Chúa Nhật, cha và các bạn dự lễ chung. Sau đó, họ gặp gỡ và trao đổi. Dần dần, có người bỏ, có người giữ. Khoảng mùa Chay năm 1534, cha và 6 người bạn cùng chí hướng liên kết với nhau thành một nhóm "bạn trong Chúa": Phêrô Favre, Phanxicô Javier, Simăo Rodrigues, Diego Laínez, Alfonso Salmeron, Nicholas Bobadilla. Laínez và Salmeron, cha đă quen ở Acalá. Lần lượt cha hướng dẫn từng người tập Linh Thao, khởi đầu là Phêrô Favre vào tháng 1 và kết thúc với Phanxicô Javier vào tháng 9. Kết quả tất cả đều muốn theo Đức Kitô trong thanh bần và tận hiến để phục vụ tha nhân.

Trong những ngày mùa hè được nghỉ học, nhóm trao đổi với nhau về Hội Thánh, về tương lai. Dần dần một dự tính chung thành h́nh: tất cả sẽ làm linh mục và đi hành hương Giêrusalem. Quyết tâm và dự tính ấy được diễn tả qua lời khấn tại Montmartre ngày 15/8/1534. Lúc đó nhóm chỉ mới có Favre là linh mục. Nhóm "bạn trong Chúa"của cha có bảy người, kể cả cha, quyết định sống đơn sơ khó nghèo, khiết tịnh và đi hành hương Đất Thánh. Nhóm dự định sẽ đi Venezia và từ đó sẽ đến Giêrusalem. Nếu không được phép ở lại Giêrusalem nhóm sẽ trở về Roma tŕnh diện vị đại diện Chúa Kitô để Ngài sai chúng tôi làm việc những nơi Ngài nhận thấy Thiên Chúa sẽ được vinh quang hơn và các linh hồn được lợi ích hơn.

Tại Paris, cha bị đau dạ dày trở lại. Cứ mười lăm ngày cha lại đau và kéo dài suốt hơn một tiếng. Có lần cha đau suốt mười sáu, mười bảy tiếng. Bệnh t́nh trở nên càng ngày càng trầm trọng, không t́m được cách nào chữa trị, mặc dù đă thử nhiều cách. Các y sĩ nói rằng chỉ có khí hậu ở quê nhà mới có thể giúp cha khỏi bệnh. Các bạn cũng bảo như thế và khuyên cha về quê. Cuối cùng cha chiều ư các bạn. V́ có một số bạn gốc Tây Ban Nha cần giải quyết một số vấn đề gia đ́nh nên cha t́nh nguyện về quê lo giùm và hẹn gặp các bạn ở Venezia để cùng đi Giêrusalem.

Cha rời Paris năm 1535, một ḿnh cỡi ngựa về Tây Ban Nha. Lo xong việc, cha t́m đường lên Venezia họp mặt với nhóm. Lúc này nhóm của cha có thêm ba người mới. Họ đă tụ họp tại Venezia vào đầu năm 1537 và chia nhau giúp việc tại các nhà thương. Hai, ba tháng sau tất cả lên đường đi Roma nhận phép lành của Đức Thánh Cha để đi Giêrusalem (lúc đó không có cha). Tại Venezia, những người chưa làm linh mục th́ được chịu chức thánh. Họ chịu chức với tư cách các tu sĩ thanh bần khấn đời khiết tịnh và nghèo khó. Nhưng nhóm cũng chưa phải là một ḍng tu, chỉ là một nhóm thân hữu."

 

 
   
     
 

Đoàn Giêsu Hữu (1538-1540)

Cha I-nhă kể tiếp: "V́ năm đó chính quyền Venezia đă đoạn giao với đế quốc Thổ Nhĩ Ḱ, nên không có tàu nào đi Trung Đông. Thấy không có hy vọng đi Giêrusalem trong một tương lai gần, nên chúng tôi đă chia nhau đi các vùng xứ Venezia mà chờ một năm như đă dự định trước kia. Hết năm chờ tàu, mà không đi được nên các bạn đồng hành quyết định đi Roma. Lần này cha cũng đi v́ lần trước khi các bạn đi Roma lần đó không có cha. Chúng tôi chia làm ba, bốn nhóm.

Cha đi trước với Phêrô Favre và Diego Laínez. Trong chuyến đi này, cha được Thiên Chúa thăm viếng một cách hết sức đặc biệt. Cha đă quyết định sau khi chịu chức linh mục, sẽ không làm lễ suốt một năm, để chuẩn bị và cầu xin Đức Mẹ đặt cha đến cùng Chúa Con. Một hôm khi c̣n cách xa Roma mấy dặm, đang khi cầu nguyện trong một nhà nguyện ở La Storta, cha nhận thấy một sự thay đổi lớn lao trong tâm hồn, và có một thị kiến rơ ràng là Chúa Cha gửi gắm cha cho Chúa Kitô, con của Ngài. Cha không thể nào nghi ngờ điều đó chỉ biết rằng Chúa Cha đă gửi cha cho Chúa Con. Cha không biết điều này có ư nghĩa ǵ, nhưng vẫn tin tưởng và phó thác.

Tại Roma, cha và các bạn thực hiện một số việc bác ái, như việc dạy giáo lư, mở các cô nhi viện và nhà Thánh Marta dành cho những người phụ nữ lầm lỡ. Lễ Giáng Sinh năm 1538, cha dâng lễ mở tay trong Đền thờ Đức Bà Cả (St Maria Maggiore) taị nguyện đường Máng cỏ. V́ cha đă không được dâng lễ mở tay ở chính nơi Chúa sinh ra, th́ nơi đây cũng là niềm an ủi cho cha.

Muà chay năm sau (1539), cha mời tất cả các bạn đồng chí hướng về Roma để bàn về tương lai của nhóm. V́ không đi được Giêrusalem, chúng tôi cần t́m một hướng đi mới cho nhóm. Nhớ lại thị kiến ở La Storta, cha tin rằng nhóm được mời gọi để đồng hành cùng Chúa Kitô. Chúng tôi cầu nguyện với nhau trong nhiều tuần và cùng bàn hỏi và nhận định, chúng tôi quyết định giữ các lời khấn khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục để nên giống Chúa Kitô hơn. Chúng tôi quyết định đặt cả nhóm dưới sự lănh đạo của Đức Thánh Cha để đi bất cứ nơi đâu Hội Thánh cần. Đức Thánh Cha nhờ chúng tôi dạy Kinh thánh, thần học và giảng thuyết và phụ trách một số việc bác ái ở Roma như chúng tôi đă làm. Hơn một năm sau, ngày 27 tháng 9 năm 1540, Đức Phaolô III chính thức chuẩn nhận chúng tôi là một ḍng tu. V́ chúng tôi gọi nhau là các Giêsu Hữu, các bạn đồng hành của Chúa Giêsu (compania de Jesús), danh xưng chính thức bằng tiếng Latinh là ‘Societatis Jesu.’

Cha được anh em bầu làm bề trên tiên khởi. Cha nhất định từ chối và xin anh em cầu nguyện và bầu lại. Sau mấy ngày cầu nguyện và nhận định, cha lại đắc cử lần thứ hai. Cha linh hướng buộc cha phải vâng theo ư Chúa. Ngày 22 tháng 4 năm 1541 tại Đền thánh Phaolô ngoại thành, cha và các anh em tuyên khấn các ba lời khấn ḍng như các tu sĩ khác cộng thêm lời khấn vâng phục Đức Thánh Cha trong sứ mệnh."

 

 
   
     
 

Những năm cuối tại Roma (1541-1556)

Tôi hỏi tiếp: "Các người bạn tiên khởi của cha có giúp cha điều hành hội ḍng không?"

Ngài nhắm mắt một lúc rồi nói: "Khi ḍng chính thức được thành lập th́ nhóm của cha từ từ mỗi người nhận một sứ vụ riêng. Phanxicô Javier đi truyền giáo miền viễn đông và cha chẳng c̣n gặp lại anh ta nữa. Phêrô Favre đi sang Đức rồi Tây Ban Nha. Laínez th́ làm bề trên của các nhà ở Ư và là thần học gia ở công đồng Trento. Và những người khác cũng lần lượt rời Roma, mỗi người một ngả. Cộng đoàn của cha là cộng đoàn lưu động như các tông đồ thưở xưa. Bây giờ c̣n một ḿnh cha ngồi đây gần 15 năm nay lo điều hành hội ḍng viết thư và trả lời các thư từ và báo cáo của anh em khắp nơi gửi về. Từ con số nhỏ nhoi 10 người năm xưa, nay (1556) đă gần 1000 Giêsu Hữu rồi.

Bây giờ cha bận rộn nhiều, mà sức khoẻ ngày càng kém. Cha cũng chẳng đi lại nhiều nữa. Cha phải hy sinh hết công việc mục vụ bên ngoài mà cha yêu thích để soạn các tài liệu nền tảng cho ḍng. Quyển Linh Thao cũng đă được viết, dịch và in bằng tiếng Latinh năm 1548 để làm tài liệu huấn luyện cho anh em. Hiến pháp ḍng cũng đă tạm xong. Phần lớn thời giờ của cha bây giờ là để đọc báo cáo và trả lời thư từ của các anh em khắp nơi gửi về, từ Brazil đến Nhật Bản. Chưa kể thư từ với các cộng sự viên, ân nhân của ḍng, cũng như với giáo triều Roma nữa. Cha phải nhờ cha Polanco giúp làm thư kư cho cha."

Tôi hỏi ngài: "Cha soạn hiến pháp ḍng như thế nào?"

Cha I-nhă trầm ngâm: "Được chuẩn nhận rồi th́ có nhiều việc phải lo. Một tổ chức cần phải có nội quy để điều hành. Rồi phải đối diện với những sức ép từ bên ngoài cũng như trong anh em. Làm sao cho ḍng phát triển? Làm sao để huấn luyện người mới? Nhiều việc lắm.

Lúc soạn hiến pháp Cha thường áp dụng phương pháp dưới đây: Mỗi ngày, Cha dâng Lễ, tŕnh bày ư định điều lệ đang viết và cầu nguyện về điều đó. Mỗi lần dâng Lễ và cầu nguyện th́ không cầm được nước mắt. Cha cũng hay nhận được các thị kiến lúc đang làm Lễ và khi soạn thảo hiến pháp ḍng. Phần nhiều diễn tả các thị kiến chuẩn xác những điều lệ trong hiến pháp, có khi thấy Chúa Cha, có khi cả Ba Ngôi, có khi Đức Mẹ đang cầu bầu hoặc đang phê chuẩn các điều lệ. Có một lần, khi đang nhận định về một điều lệ trong luật ḍng là các nhà thờ của ḍng có nên có nguồn lợi riêng không. Lần đó, cha đă dùng 40 ngày để nhận định và làm lễ mỗi ngày cho ư chỉ trên. Trong suốt những thánh lễ ấy, cha đă khóc rất nhiều v́ thấy Chúa thương ḿnh quá."

Tôi gật đầu: "Con thấy cha thật sự sống kết hợp với Chúa. Nh́n lại quăng đời đă qua cha thấy được điều ǵ?"

Ngài đáp: "Cha theo Chúa nhiều năm và biết ḿnh mắc nhiều lỗi lầm với Chúa, nhưng Chúa vẫn thương. Từ ngày bị thương ở Pamplona đến nay, mấy chục năm dài mà cha vẫn ngỡ như ngày hôm qua. Mỗi ngày cha làm phút hồi tâm để t́m kiếm Chúa trong mọi sự và cố gắng phụng sự Chúa để vinh quang của Ngài được tỏ rạng hơn. Không phải ngẫu nhiên mà cha cha chọn khẩu hiệu "Để Danh Chúa Cả Sáng Hơn" (Ad Majorem Dei Gloriam). Kinh nghiệm thiêng liêng của cha có thể được đúc kết trong phần dẫn nhập của sách Linh Thao, điều mà cha gọi là ‘Nguyên Lư và Nền Tảng’.

m nay cha đă gần 65 tuổi, cha lại bị bệnh gan. Không biết Chúa c̣n cho cha sống được bao lâu nữa, nhưng mỗi ngày cha vẫn cố gắng dâng cuộc sống của cha cho Chúa. Cha thường cầu nguyện thế này:

Lạy Chúa, xin hăy nhận lấy tất cả
sự tự do, trí nhớ, trí hiểu và tất cả ư chí của con.
Tất cả những ǵ con có và sở hữu đều do Chúa ban cho con.
Con xin dâng lại Chúa tất cả để Chúa hoàn toàn sử dụng theo tôn ư.
Con chỉ xin Chúa cho con t́nh yêu và ân sủng của Chúa.
Được như thế con đầy đủ lắm và không cần chi hơn."

Nói xong cha nhắm mắt trầm ngâm và cầu nguyện.

Không muốn quấy rầy ngài, tôi nhẹ nhàng bước ra ngoài và hít một hơi dài. Bầu trời Roma đă xế chiều. Ánh tà dương đang lịm tắt và thành phố đă lên đèn.

 

 
   
     
 

Cha I-nhă bị đau bao tử đă nhiều năm và khi đến Roma, ngày càng tệ hơn. Một buổi chiều muà hè năm 1556, cha I-nhă thấy không được khoẻ lắm. Ngài nhờ cha thư kư Polanco đi xin phép lành của Đức Giáo Hoàng v́ biết giờ của ḿnh đă gần đến. Trước đó y sĩ đến khám và nghĩ rằng cha I-nhă chỉ hơi mệt thôi nhưng sẽ qua khỏi. Tin lời y sĩ, cha Polanco nhắc cha I-nhă rằng cha cần phải viết nhiều thư và gửi đi ngày hôm sau. Sáng mai cha sẽ đi qua phủ giáo hoàng xin phép lành. Cha I-nhă muốn cha Polanco đi chiều hôm đó, nhưng ngài không ép. Đêm hôm đó, cha I-nhă trở bệnh. Cha Polanco chạy gấp sang phủ giáo hoàng nhưng không kịp. Khi mọi người đến th́ cha I-nhă đă ra đi trong b́nh an rạng sáng ngày 31/7, hưởng thọ 65 tuổi.

Ngài được phong chân phước ngày 27 tháng 7 năm 1609, và Đức Gregory XV tôn phong ngài lên bậc hiển thánh cùng với Phanxicô Xavier vào ngày 12 tháng 3 năm 1622. Hội thánh hoàn vũ kính nhớ ngài vào đúng ngày ngài qua đời, 31/7.

Nhân dịp lễ giỗ lần thứ 450 của cha I-nhă

Antôn-Phaolô, SJ