Hoa phượng nở rực
rỡ vào mùa hè tại Barry University ở Florida. Nh́n phượng đỏ khoe màu
sắc tôi nhớ lại những kỉ niệm vui buồn với những h́nh ảnh lên đường
vào hè xưa ấy. Khoảng năm 1972 đến 1976 có những lần tôi đă cùng đồng
hành với cha Elizaldé Thành và bè bạn thuộc nhiều phân khoa cũng như
tôn giáo khác nhau. Chúng tôi đă cùng chung vui trong bữa ăn chay do
ni cô nhà chùa khoản đăi ở B́nh Dương. Chúng tôi đă cùng ăn bữa cơm
với canh khoai lang do các cha ḍng khổ tu tại Đơn Dương ở Đà Lạt
khoản đăi. Đă có những lúc chúng tôi cắt tóc, chơi đùa với các em nhỏ
ở miền quê. Rồi những khi xót xa đứng bên giường các anh thương binh
tại bệnh viện. Chúng tôi cũng đă buồn đau và hối tiếc về sự ra đi của
Thủy anh bạn Cao Đài đẹp trai và tuấn tú học trường kỹ thuật Phú Thọ.
Sau mùa thi cử nhóm sinh viên chúng tôi thường đến Mai Thôn ở Sai-G̣n
chơi. Có lần tôi và ba bạn khác ngồi chung trong một con thuyền nhỏ
bơi trên ḍng sông nơi đó. Hôm ấy Thủy rời thuyền bơi qua bụi dừa nước
để bẻ dừa và hôm đó cũng là lần cuối Thủy c̣n cười nói với chúng tôi.
Thủy đă ra đi v́ vọp bẻ cuốn anh theo gịng nước ngầm sâu dưới sông.
Nhớ lại những lần chúng tôi vác cuốc, xẻng, thuốc, quần aó, sữa bột,
và cả với cây đàn guitar mộc mạc để lên đường giúp đồng bào chạy loạn
từ miền Trung vào Sài-G̣n. Chúng tôi đào mương, dựng lều, phát sữa,
thuốc, quần áo, thăm hỏi và chăm lo cho tất cả. Vào buổi trưa hè đó
nhóm chúng tôi đến dựa lưng dưới gốc cây “t́nh yêu” để ăn khúc bánh ḿ
với nước lạnh. Ăn xong thấy khoẻ khoắn rồi chúng tôi đàn ca. Toại ôm
đàn dạo và chúng tôi bắt đầu diễn tả ḷng ước ao của ḿnh khi đồng ca
bản nhạc: “Tôi muốn mọi người biết thương nhau, không oán ghét, không
gây hận sầu. Tôi muốn đời hết nghĩa thương đau, tôi muốn khóc thương
đời điêu tàn. Tôi muốn cười vào những khoe khoang, tôi muốn sống như
loài hoa hiền. Tôi muốn thấy t́nh yêu ban đầu.” Đă bao năm qua cho
tới gần cuối tháng bảy năm nay tại Barry University này tôi mới lại có
dịp dạo bước dưới bóng cây phượng vĩ trong bầu trời trong sáng. Ánh
trời chiếu dọi trên màu đỏ phượng nở làm tôi có cảm tưởng đang bước đi
trên quê ḿnh. Tôi nghe như “phượng rơi trong ḷng tôi” cho tôi có dịp
ôn lại những ước mơ và nh́n lại “t́nh yêu ban đầu”. Ánh sáng đă nối
nhịp quá khứ và đưa tôi tới hiện tại nơi đây.
Tại Barry
University vào một buổi sớm mai khi cả ba chúng tôi gặp nhau ở bậc
thềm của Weber Hall nơi mọi người đă nghỉ qua đêm. Cha già Kidwell lên
tiếng yêu cầu chúng tôi cùng đi với cha qua pḥng họp. Dưới bóng cây
phượng vĩ vợ chồng tôi chậm răi bước hai bên cha già. Tôi thấy bồi
hồi và thương cảm khi nghe cha nói về cái đầu gối của cha đang chờ
ngày giải phẫu để thay đầu gối khác! Cha thật vui với tinh thần hăng
hái thật đơn sơ và cởi mở. Ngài cố gắng hết ḿnh cất những bước chậm
chạp từ pḥng ngủ đến pḥng họp hay nguyện đường. Khi nào phải bước
lên xuống nhiều bậc thềm cha liền hỏi thăm người làm vườn để t́m ông
Pedro. Ông Pedro lái chiếc xe nhỏ chạy trong khu đại học. Ông tỏ vẻ
rất vui thích khi cha xin số phone và nhờ ông giúp đưa cha đến nguyện
đường hay nơi họp khi cha cần. Cha tỏ vẻ mừng vui lẫn hớn hở nói cười
như chim ca. Sau hơn 20 năm cho măi đến hôm nay chúng tôi mới gặp lại
nhau kể từ khi chúng tôi gặp nhau ở USNCLC Assembly ở WA D.C. năm
1983, hay tại Đại Hội Đồng Hành lần thứ nhất 1984, và USNCLC Assembly
ở Cleveland ở Ohio năm 1985. Cả ba chúng tôi đều nhận ra nhau thật dễ
dàng. Với tấm thân ǵa mỏng manh nhưng tinh thần cha rất trẻ. Khi đến
gần nhà nguyện cha chia sẻ với tôi: “What do you think I want to sing
in the mass after communion?” Dù tôi chưa hiểu lí do tại sao cha muốn
hát tôi cũng cứ về hùa lên tiếng đáp: “Why not, father? You just need
to tell them in advance and see what they say about it.” Tôi rời cha
nơi nguyện đường để đi họp. Khi họp xong tôi trở lại nhà nguyện cho
thánh lễ chiều. Tôi để ư nghe ngóng xem cha có thật sự sẽ hát không.
Thế rồi lúc vào thánh lễ có Đức Giám Mục Augustine Roman với cha
William Kidwell, Victor Hernandez, và Kenneth Buddendorff cùng đồng tế.
Khi hoàn tất bài ca sau rước lễ cha Kidwell từ từ bước tới micro chia
sẻ vài lời rồi cha hát. Cha đă hát để tỏ bày t́nh thân thương ḷng
qúi mến với lời chúc mừng của ḿnh đến đức giám mục. Tiếng hát của
cha khỏe trẻ như nụ cười tươi tốt của ngài. Lúc đó tôi mới hiểu mục
đích cha muốn hát! Tôi thầm tạ ơn Chúa cho chúng tôi có dịp gặp lại
cha Kidwell. Tôi được nh́n thấy và được hưởng niềm vui của cha dù cha
đă già và sức đă yếu !
Khi gặp cha
Kidwell th́ chúng tôi cũng chia sẻ với ngài về cha già thứ hai là cha
Dave Fitch. Ngài cũng đă có lần đến tham dự với Đại Hội Đồng Hành.
Cha đang hưu dưỡng tại nhà tỉnh ḍng của Ḍng Tên ở Los Gatos ở CA.
Chúng tôi đă đưa một đức cha từ Việt Nam qua cùng cha phụ tá của ngài
đến tham quan nơi nhà tỉnh ḍng Tên này trước khi lên đường qua
Florida. Tiện cùng dịp tôi đă xin hẹn để gặp cha Dave Fitch. Cha Dave
Fitch có tấm thân c̣m cơi yếu hơn cha Kidwell thế nhưng đôi mắt và
giọng ngài nói thật tinh anh yêu đời và vui vẻ. Ngài bộc lộ niềm vui
khi chúng tôi chia sẻ về chuyện sửa soạn lên đường đến Miami, Fl. Qua
những tháng năm thăng trầm của Đồng Hành và USCLC qua nhiều dịp chia
sẻ chúng tôi cảm thông và hiểu nhau qua ánh mắt và nụ cười hơn là lời
nói. Tôi thấy hạnh phúc khi được gặp những người cha hiền lành. Người
cha với những gương sáng trong tinh thần phục vụ. Tinh thần phục vụ
của ngài như một người cha trộn với hiền từ mềm dẻo của người mẹ. Qua
nhiều năm học nơi ngài tôi chẳng nhớ ǵ nhiều về những lời cha chỉ dạy.
Nhưng tôi nhớ rất rơ và không bao giờ quên khi tận mắt thấy cha ǵa
nói ít và ngài thường phục vụ đàn con với cái sách tay hay cái cặp da
cũ để mang theo những gói chips, cookies... Tôi học tinh thần phục vụ
của cha khi tôi thấy những b́nh nước sôi hay b́nh café và nước ngọt đă
sẵn sàng mỗi lần chúng tôi bước vào pḥng họp. Có khi cha mang cả máy
cassette và tapes để ghi lại những báo cáo và tâm t́nh chia sẻ của mọi
người. Cha đă gửi cho chúng tôi băng khi chúng tôi vắng mặt! Tôi nhớ
tới những cú điện thoại của cha nhắc chúng tôi đi họp. Tiếng nói của
cha có sức mạnh giúp chúng tôi vượt qua mọi ngăn trở do chính ḿnh tạo
nên! Tôi thấy gương sống và yêu thương thật đẹp và rất sống động nơi
cha. Khi nh́n lại tôi thấy ḿnh c̣n lẽo đẽo và lết bết theo bước ngài.
Cha Dave Fitch đă có liên hệ gốc rễ rất xâu xa với CLC hay Hiệp Hội
Thánh Mẫu khi xưa. Năm nay vào tháng bảy này chúng tôi rất mừng được
gặp lại hai cha khả kính và đáng mến. Nguyện cầu xin Chúa luôn măi là
hạnh phúc và niềm hoan lạc của hai cha.
Ngoài ra th́ cũng
đă hơn 20 năm qua chúng tôi mới lại gặp cô Lois Campbell là chủ tịch
USCLC. Cả gia đ́nh chúng tôi đă gặp cô Lois lần đầu vào năm 1983 trong
USCLC Assembly dạo ấy cháu Thiên Anh mới ra đời được bảy tháng rồi vào
năm 1984 và năm 1985 cháu Antony bắt đầu đến dự US-CLC Assembly khi
được bốn tháng. Bây giờ cả hai đang là những thanh niên 21 và 19 tuổi.
Chúng tôi dẫn hai cháu đi Miami để “come and see” và hi vọng chúng góp
nhặt được chút kinh nghiệm góp thêm những ǵ chúng đang hướng dẫn và
chia sẻ với lớp trẻ tại cộng đoàn địa phương. Nh́n cô Lois bận rộn mà
thấy thương và chúng tôi chỉ có thể chào mừng nhau trong ṿng tay thân
mật! Không biết cô Lois có c̣n nhớ khi xưa trong Đại Hội Đồng Hành 84
đă có khi anh Cường đă công khai khen cô: “You are so beautifull”
trước mặt mọi người làm mặt cô đổi màu từ trắng sang đỏ. V́ đă gặp
Đồng Hành và đă đi qua một quăng đường với nhau cô Lois có lẽ cũng
hiểu và chia sẻ với Liêm về cái “sa mạc” mà Đồng Hành cần thoát ra!
Tuy chẳng có dịp và giờ để tâm t́nh riêng thế nhưng chúng tôi đă trao
cho nhau sự quan tâm và niềm vui hội ngô. C̣n bà Barbara Belldola tỏ
ra cảm động khi gặp lại anh Cường lúc trao đổi tâm t́nh kể từ lần gặp
cuối vào năm1990 ở Guadalajara tại Mexico. Vào năm đó bà và nhóm đại
diện vùng Bắc Mỹ và Canada đă nhường hết thời giờ hạn hẹp cho anh
Cường là đại diện Việt Nam tỏ lời cám ơn cha Bề Trên Cả Peter-Hans
Kolvenbach và USCLC về t́nh thương yêu của cha và USCLC đă dành cho
Đồng Hành VN. Anh cũng tỏ lời tuân phục xin vâng khi cha bề trên gọi
cha Thành về làm phụ tá cho CLC Thế Giới tại Rome. Anh đă tŕnh bày
nhu cầu xin giúp giáo hội VN và nhu cầu huấn luyện cho Đồng Hành. Cha
đă lắng nghe với trọn ḷng thương mến. Năm nay ở Miami tại USCLC
Assembly chúng tôi cũng gặp lại các bạn đại diện USCLC của Vùng Bắc
Cali. Đặc biệt ông Gary Miskimon là cựu quân nhân đă có lần đến phục
vụ tại Việt Nam và ông đă lên tiếng hết ḷng trợ đỡ Đồng Hành trong
những buổi họp của EXco USCLC. Ông chia sẻ cho chúng tôi biết ông
thật xúc động rơi lệ khiến ông quên cả chụp h́nh lúc thánh lễ. Với cha
John LeVecke là người chúng tôi mới gặp ba bốn lần trong năm tháng
qua. Thấy cha thật vui! Tôi thấy tội nghiệp cha chưa quen với thời
tiết ở Miami nơi xứ nóng nên mặt và áo cha thường ướt bởi mồ hôi.
Chúng tôi gặp và chào ôm nhau thân t́nh nhưng rồi tôi phải vội lau mặt
ḿnh v́ mặt cha ướt nhẹp! Cha tự nhiên, vui vẻ bộc lộ với chúng tôi:
“I am very happy and excited.” Tôi cũng không ṭ ṃ hỏi xem cha vui và
hứng thú về chuyện ǵ! Tôi tự nghĩ cha có niềm vui là tốt rồi! Chúng
tôi cám ơn Chúa v́ cha John thật là món quà Chúa ban cho CLC. Cha có
tài năng riêng và mới mẻ lại đặc biệt có khiếu về media.
Tôi ngạc nhiên
nh́n cha John LeVecke trong trang phục áo chùng thâm với mũ thời xưa
mà các vị thừa sai đă mặc trong buổi cầu nguyện sáng. Cha đứng chờ với
vẻ nghiêm túc khác thường. Cha tỏ vẻ serious thật nên tôi chẳng dám
phá ngài! Tôi lặng lẽ ngồi chờ đợi xem chuyện ǵ xảy đến! Khi nghe
tiếng sáo và nhạc của bối cảnh trong phim “Mission” bắt đầu là lúc tôi
nghe nhịp tim ḿnh chuyển theo. Tim tôi chuyển như cơn sóng dâng lên
cuộn theo tiếng sáo vốn đă gây nhiều ảnh hưởng trong tâm tư ḿnh.
Thành thật mà nói ảnh hưởng này đă đến kể từ khi cha Tước đem cho cả
nhà mấy vé miễn phí để đi xem phim Mission vào năm 1986 ở Beaverton
của tiểu bang OR .Ư nghĩa của hoạt cảnh mà cha John và cha Trí cùng
mấy người đại diện tŕnh bày đă khơi dậy niềm ước ao sâu xa đă tiềm ẩn
trong nơi sâu thẳm nhất của ḷng tôi. Nơi tôi nghe có tiếng gọi như
mầu nhiệm nhập thể vào thế giới này. Nơi tôi đă đón nhận một hạt giống
đă được gieo vào từ thuở hoang sơ nào đó. Hạt giống đó trong tôi muốn
nảy mầm vươn lên! Cái bồi hồi khi nh́n cha John LeVecke và cha Trí
cùng các người đại diện cho những chi thể khác nhau trong một thân thể
mầu nhiệm của Đức Kitô đă xấp ḿnh tiếp nhận lời mời gọi của Đấng Tối
Cao! Tôi không khỏi cảm động nhớ lại h́nh ảnh cuối trong phim Mission
này. H́nh ảnh một em nhỏ trần trụi v́ sống sót sau cuộc chiến và em đă
đi t́m vớt lên được chiếc violon nơi gịng nước. Chiếc violon của vị
linh mục đă dạo và đă dạy các em cất lời thờ phượng và ca tụng Đấng
Tối Cao. Ngài đă dẫn dắt đàn chiên của ḿnh hướng nh́n về Phép Thánh
Thể. Đàn chiên đă bước theo ngài đi giữa khói lửa và súng đạn với mũi
tên. Ngài đă gục ngă và chết khi hai tay đang nâng cao Ḿnh Thánh Chúa
ngay giữa cuộc chiến của quyền lợi với danh vọng cùng hận thù và ghen
ghét. C̣n h́nh ảnh nào cao quí hơn!
Tôi viết sao cho
hết về thật nhiều khuôn mặt mới và cũ! Tôi không chỉ nhớ thật nhiều
bạn đồng hành mà c̣n nhớ cả những buồng cau, bụi chuối, cụm dừa, con
thạch sùng cùng đàn kiến bống. Tôi nhớ đến bài ca tôi hay hát thuở học
tṛ nhắc tới mùa phượng nở “Hoa phượng rơi đón mùa thu tới. Màu lưu
luyến, nhớ qúa thu ơi! Ngàn phượng rơi bay vương tóc tôi, xác tươi,
màu pháo vui tiễn em chiều năm ấy. Thu lại sang sắc hồng tơ lối.” Hè
qua rồi thu sang và phượng nở rồi phượng tàn rồi phượng rơi báo hiệu
thu tới! B́nh thường như những cuộc họp rồi tan. Bây giờ hè đang qua
đám học tṛ bắt đầu đi mua sắm quần áo và sách vở chờ ngày tựu trường
trở lại. Khi thu sang rồi Đông lại đến đợi Xuân trở lại với hội hè và
mừng lễ Tết sau mùa chay rồi Phục Sinh.
Ngày xưa và hôm
nay người Việt ta chưng mai vàng đón xuân và mừng lễ hội. Trong đời
sống Kitô hữu có một biến cố trọng đại mà hàng năm người Do Thái vẫn
cử hành là mừng lễ Vượt Qua. Họ cử hành trọng thể để nghiền ngẫm và
nhớ lại một đêm rất khác với mọi đêm, một ngày thật khác với mọi ngày.
Cử hành lễ với thịt chiên đă sát tế vào lúc xế chiều để tưởng nhớ đến
Con Chiên Vượt Qua cùng vết máu bôi lên khung cửa và ăn bánh không men
với rau đắng. Họ nhớ lại ngày tổ tiên và cha ông họ phải vội vă lên
đường ra khỏi Ai Cập để khỏi cảnh nô lệ. Đồng Hành cũng mừng lễ Vượt
Qua với dấu chỉ đón mừng quà “tự do của người con Thiên Chúa” Ngài đă
dẫn ta qua nhiều sa mạc để ta biết đặt niền tin nơi chính Ngài. Đó là
lễ Vượt Qua mừng Đức Chúa là Đấng đă giải thoát chúng ta vượt qua bao
nỗi sợ để chúng ta tập yêu thương và tin tưởng nơi Ngài. Để chúng ta
nhận ra cũng chính đêm hôm đó Ngài đă nộp ḿnh hiến tế chính Ngài
trong Bí Tích Thánh Thể vào bữa tiệc ly. Để chúng ta nhận biết ḿnh
được cứu thoát và ca mừng như ngôn sứ Miriam và bạn hữu đă nhảy múa ca
mừng: “Hăy hát mừng Đức Chúa, Đấng cao cả oai hùng, kỵ binh cùng chiến
mă, Người xô xuống dại dương.” (Xh16,20-21). Nhờ đó chúng ta bước đi
theo tiếng gọi như được diễn tả qua tâm t́nh “ Ngài Đă Sống Lại” của
cha Thomas Merton, một tu sĩ nổi danh ḍng Trapist đă viết:
Người Kitô hữu
phải có can đảm
để theo Đức Kitô.
Người Kito hữu
là người sống lại trong Đức Kitô
phải dám
giống như Đức Kitô
phải sống theo lương tâm
ngay cả trong trường hợp khác thường.
Người ấy khi cần
vẫn bất đồng ư với khối đông
và ra quyết định
mà người ấy biết là
hợp với Phúc Âm
ngay cả khi những người khác
không hiểu
tại sao lại làm như thế .
(phỏng dịch từ:
He Is Risen, P.22, Thomas Merton)
|