|
Linh mục Đỗ Minh
Trí, tên thật là Gildo Dominici, sinh ngày 5 tháng 3 năm 1935 tại
Assisi thuộc miền trung nước Ư. Ngài là con trai lớn trong một gia
đ́nh lao động có hai trai và một gái. Người cha, cột trụ của gia đ́nh,
đột ngột mất đi trong một tai nạn lao động khi cậu Gildo mới được 8
tuổi. Mẹ cậu phải chật vật từ sáng sớm đến chiều tối bằng nghề may
thuê vá mướn để nuôi nấng dạy dỗ 3 con thơ dại. Học xong chương tŕnh
trung học, cậu Gildo quyết chí đi vào con đường tu đạo và được chọn
vào chủng viện của thành phố. Thụ phong linh mục năm 1960, cha Gildo
Dominici gia nhập Ḍng Tên (Society of Jesuit) năm 1964 với ước mong
đi truyền giáo ở nước ngoài.
Cuối năm 1967,
cha Dominici đến Việt Nam và bắt đầu học tiếng Việt tại trung tâm Đắc
Lộ trên đường Yên Đỗ, Saigon. Mới đặt chân đến thủ đô Saigon có vài
tháng, ngài đă được chứng kiến tận mắt thảm cảnh chiến tranh trong đêm
giao thừa và những ngày đầu Tết Mậu Thân ngay trên đường phố. Lúc đó,
ngài cảm nhận được sự gắn bó với cuộc sống của cả một dân tộc đang bị
đè nặng bởi các vấn đề và một nỗi sợ tận cùng cho một tương lai kể như
không có. Sau đó, ngài lên Đà Lạt dạy La Tinh tại Chủng viện Simon-Ḥa,
đồng thời tiếp tục học ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam. Sau một thời gian
ngắn về Rôma, nước Ư, năm 1970 để tŕnh luận án tiến sĩ Giáo Luật,
ngài qua Việt Nam lần thứ hai và dạy tại Giáo Hoàng Học Viện, Đà Lạt,
cho đến ngày 30 tháng 4, năm 1975. Chính trong thời gian này, linh mục
Dominici đă nhận Việt Nam làm quê hương, và chọn một tên Việt: Đỗ Minh
Trí. Ngài luôn luôn mong muốn được gọi bằng tên Việt Nam này, thay v́
tên Ư. V́ vậy, trong bài này, tôi xin được dùng tên Việt Nam của ngài.
Ngài nói: ‘Việt Nam là quê hương của tôi, dù rằng tôi không được
sinh ra trên đất nước Việt Nam. Tôi chỉ ở đó có bảy năm. Bấy nhiêu
cũng đủ để trở thành một công dân Việt Nam, theo cách riêng của tôi,
mặc dù trên phương diện huyết thống hay pháp lư tôi không được niềm
hân hạnh ấy.’ ‘Nếu xét theo tiêu chuẩn địa lư, th́ Việt Nam quê hương
tôi thật nhỏ bé: diên tích hẹp, dân số ít. Nhưng có một nước Việt Nam
khác rộng lớn hơn, rộng lớn như một đại lục. Đó là Văn Hoá Việt Nam,
Tâm Hồn Việt Nam, đó là Tinh Thần của Việt Nam. Và chính đó mới thực
sự là quê hương Việt Nam của tôi’.
Sau biến cố tháng
4 năm 1975, cha Trí bị trục xuất ra khỏi Việt Nam cùng với tất cả các
tu sĩ ngoại quốc khác, có vị đă liên tục sinh sống và gắn bó với quê
hương của chúng ta gần 40 năm. Dù bị trục xuất, cha Trí không coi đó
là một thảm kịch cá nhân, v́ tự coi như bị bắt buộc rời bỏ quê hương
của ḿnh cùng với nhiều người Việt Nam khác trong làn sóng ra đi tỵ
nạn. Thuyền nhân Việt Nam bắt đầu đổ đến quần đảo Riau, Indonesia, từ
1975. Mặc dầu chính quyền Indonesia lúc đó không muốn tiếp nhận người
tỵ nạn, nhưng Giáo hội Công giáo và nhất là cha sở họ đạo Tanjung
Pinang niềm nở đón nhận họ, lại c̣n khuyến khích giáo hữu địa phương
giúp đỡ những người anh em hoạn nạn. Kể từ thời điểm này, cha Trí hoàn
toàn gắn bó với ngựi tỵ nạn Việt Nam. Cha t́nh nguyện làm tuyên úy
trong trại tỵ nạn Việt Nam đầu tiên tại Indonesia để có dịp phục vụ
người Việt khốn khó. Vào tháng 5 năm 1977, từ Singapore, ngài vào
Indonesia. Sau khi học nói tiếng Indonesia và xin gia nhập Ḍng Tên
của nước này, cha Trí sống và hội nhập với người Việt tỵ nạn. Ngài
nhập cuộc với thuyền nhân trắng tay, đă bỏ lại tất cả để đổi lấy tự
do. Từ một trại nhỏ trên đảo Kuku, ngài đă đồng hành cùng dân tỵ nạn
đến một trại lớn hơn trên đảo Galang.
Mỗi người tỵ nạn
có một hoàn cảnh và tâm tư riêng biệt. Một số thuyền nhân bị phân tán
gia đ́nh, có người đến được một ḿnh, lẻ loi, lạc lơng, bỏ lại vợ hoặc
chồng, con cái ở Việt Nam. Có người đă trải qua những thảm kịch trong
chuyến vượt biên đầy kinh hăi. Họ sống sót sau khi chứng kiến những
cảnh giết chóc, khủng bố, hăm hiếp, do hải tặc gây ra. Nhiều trẻ em
đến được trại không thân nhân, bị các phái đoàn ngoại quốc từ chối, và
bắt đầu một cuộc sống lêu lổng vô vọng. Vài người đến đảo cùng với chủ
tàu và bi chủ tàu đ̣i thêm tiền, cao hơn số tiền hai bên đă thoả thuận
trước đó. Và c̣n nhiều cảnh éo le khác, như cảnh vài thiếu phụ một
ḿnh vượt biên đến đảo, được chồng ở Hoa Kỳ bảo lănh qua, nhưng trong
thời gian ở đảo lại liên hệ t́nh cảm với thanh niên trong trại và mang
thai. Có người đến đảo với niềm tin chắc chắn rằng người hôn phối đă
định cư trước sẽ bảo lănh ḿnh, nhưng phải đối diện với một sự thật
phũ phàng là đă bị bỏ rơi. Một số người vi phạm một nội quy của trại
đă bị cảnh sát người Indonesia giam giữ và đánh đập tàn nhẫn. Và c̣n
nhiều trường hợp thê thảm, oan nghiệt khác. Cha Trí có lần đă nhận xét:
‘Cuộc sống người tỵ nạn thường được đánh dấu bởi thảm trạng: thảm
trạng của chết chóc trên biển cả, thảm trạng của nạn cướp biển hăm
hiếp và tàn sát, thảm trạng của gia đ́nh đổ vỡ, thảm trạng của bạo
động.’
Gắn liền với cuộc
sống thường nhật của người tỵ nạn, cha Trí t́m cách giúp đỡ họ từ việc
phân phát quần áo ngài quyên xin được, thăm viếng và an ủi người đau
ốm, đến chăm sóc trẻ thơ, không phân biệt lương giáo. Trong trại, cha
sống ḥa ḿnh cùng họ và t́m hiểu tâm tư nguyện vọng của mỗi người.
Ngài ăn ở chung với một số thanh niên độc thân. Nhiều người c̣n nhớ
đến cảnh hàng ngày trực sách nước cho nhu cầu ăn uống và tắm rửa.
Nhiều thanh niên ở chung với ngài đă sao lăng nhiệm vụ sách nước hàng
ngày, có lần cha Trí thấy thùng ‘phuy’ chứa nước trong pḥng khô cạn.
Tối hôm đó, ngài thay quần áo, cầm một thùng xô nhỏ và tự động đi sách
nước về. Các thanh niên ở chung sau đó phát hiện ra và tự giác sửa đổi.
Nhiều người tỵ nạn cố t́m đến cha để mong được giúp đỡ hoặc an ủi.
Sáng sớm mỗi ngày, dân công giáo đến nhà thờ do ngài cùng người dân tỵ
nạn dựng lên để dự thánh lễ, thường đông đến 500 người. Ngay sau thánh
lễ, nhiều người nán ở lại để gặp riêng ngài, nhờ giải quyết những vấn
đề riêng tư. ‘Ban đầu, tôi dán thời khóa biểu tiếp khách ngoài cửa,
nhưng rồi tôi lại gỡ xuống. Tôi ở đây làm với họ, cho đi tất cả, tiêu
pha tất cả: thời giờ nghỉ ngơi, ăn uống, tôi dành tất cả thời gian cho
họ. Tất cả cho t́nh yêu và hy sinh.’ Pḥng khách của ngài nhộn nhịp
người ra vào từ sáng đến tối. Nhiều người sau khi rời trại và định cư
tại một nước thứ ba gửi thư nhờ ngài chuyển đến người thân hay bạn bè
c̣n ở lại trong trại. Có người c̣n gửi cả tiền mặt trong thư, thư tuy
có đến, nhưng tiền th́ không c̣n. Cha Trí chỉ c̣n biết lấy tiền túi bù
vào số tiền đă mất và đưa lại cho người nhận. Ngài c̣n vận động với
các đoàn thể thiện nguyện, chính quyền địa phương tổ chức thêm nhiều
lớp dạy Anh văn, chuyên môn và văn hóa, cho dân tỵ nạn, nhất là cho
thanh thiếu niên. Ngài khuyến khích thanh thiếu niên công giáo gia
nhập đoàn Thanh Niên Công Giáo hoặc Thiếu Nhi Thánh Thể. Ngài cũng đặc
biệt lưu tâm đến các trẻ em lai, bị kỳ thị và ruồng bỏ ngay từ khi c̣n
ở trong nước.
Sau những ngày
đầu phục vụ người Việt tỵ nạn, cha Trí nhận định được tầm quan trọng
về nhu cầu văn hóa, giáo dục và tinh thần cho cộng đồng tỵ nạn. Đó
không chỉ là nhu cầu giáo dục để có đủ kiến thức căn bản hội nhập vào
quốc gia định cư. Đó c̣n là nhu cầu tinh thần: người tỵ nạn cần có
một giá trị tinh thần nhân bản, đă mất v́ chiến tranh, loạn lạc, và
nhất là sau nhiều năm sống dưới một chế độ áp bức phi nhân, lừa dối,
gây hận thù, nghi ngờ, chia rẽ. Qua những lần tiếp xúc hàng ngày, cha
Trí tự đặt cho ḿnh một nhiệm vụ khẩn trương là phục hồi các giá trị
nhân bản và đạo đức cho dân Việt tỵ nạn. Ngài nói: ‘Tâm hồn họ như một
thành phố sau khi bị dội bom tàn bạo: tất cả đều bị san bằng ngang mặt
đất. Cơ cấu đạo đức, bậc thang giá trị đă bị phá hủy.’ ‘Giờ đây, cần
phải t́m lại nguồn vui sống, phải t́m lại thú ham sống một đời sống
đầy và tràn trề hy vọng, niềm tin nơi con người, niềm tin vào tương
lai nhân loại ... Bởi v́ người Việt Nam có một trọng trách nặng nề
đang chờ họ: xây dựng lại đất nước, xây dựng một nước Việt Nam mới ...
Để hoàn thành trọng trách này, cần có những người Việt Nam mạnh khỏe,
tươi vui, lành mạnh cả về thể xác lẫn tinh thần. Cần có những người
Việt Nam có tâm hồn trong sáng, tinh thần lành mạnh, có lư tưởng, ḷng
quảng đại và tràn đầy t́nh thương.’ Cha Trí c̣n nói rơ thêm: ‘Nếu các
phái đoàn ngoại quốc cho người tỵ nạn cơm ăn, nhà ở, áo mặc, một đất
nước mới mà không cho họ một niềm tin mới nơi con người, một niềm hy
vọng mới, một lư tưởng sống, th́ sự giúp đỡ c̣n ít ỏi quá!’ V́ vậy,
ngài chủ trương xây dựng lại tâm hồn người tỵ nạn bằng những giá trị
đạo đức, văn hoá truyền thống Việt Nam cùng những giá trị cao đẹp về
ḷng nhân ái, tự do, công b́nh. ‘Phải t́m cho ḿnh một lư tưởng sống,
một lẽ sống, một nguyên tắc sống và các giá trị để thực hiện. Trước
khi xây dựng lại đất nước, phải xây dựng lại tầm hồn!’
Đó là tinh thần
những bài giảng của cha Trí trong nhà thờ. Nhận thấy cần phổ biến rộng
răi hơn nữa việc giáo dục tinh thần trong cộng đồng tỵ nạn, ngài chủ
trương phát hành bán nguyệt san Tự Do, bằng tiếng Việt và tiếng Anh.
Tuy làm chủ nhiệm, cha Trí giao cho một ban biên tập gồm khoảng 10 anh
chị em tỵ nạn thực hiện cụ thể tạp chí này từ bài vở, in ấn và phát
hành. Ban biên tập gồm những anh chị em nhiều thiện chí, tuy phần lớn
không có kinh nghiệm làm báo. Mỗi khi nghe tin có văn nghệ sĩ nào vượt
biên thành công và đến đảo, cha Trí vội mời ngay các vị này vào ban
biên tập. Các văn nghệ sĩ này cũng rất vui mừng được cầm bút trở lại,
sau nhiều năm bị câm lặng trong áp bức, tù đày. Tôi được nghe nói đến
nhà văn Nguyễn Mộng Giác, các nhà báo Đỗ Thái Nhiên, Phan Tấn Hải,
Nguyễn Bá Tùng, họa sĩ Vị Ư... Những vị này đă nâng cao giá trị nghệ
thuật của bán nguyệt san Tự Do. V́ đối tượng chính là dân tỵ nạn người
Việt, nên cha Trí đặt trọng tâm vào báo Việt ngữ, phát hành mỗi tháng
2 kỳ. C̣n báo tiếng Anh, phát hành mỗi tháng một số, chỉ nhằm giúp Cao
Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc và các cơ quan thiện nguyện hiểu rơ hơn về
nhu cầu của thuyền nhân. Số báo tiếng Việt đầu tiên ra mắt ngày 1
tháng 4 năm 1980, đă được thuyền nhân trong trại Galang hân hoan đón
đọc. Và từ đó, báo Tự Do trở thành món ăn tinh thần của người tỵ nạn.
Nhiều độc giả gửi sáng tác thơ văn đến báo, cũng như góp ư xây dựng
với ban biên tập.
Tôi c̣n nhớ rất
rơ những ngày đầu gia đ́nh tôi đến được trại Galang. Đó là vào đầu năm
1983, tôi nhận một công tác thiện nguyện trong cơ quan World Relief:
dạy kỹ nghệ họa cho một lớp chừng hơn 30 học viên. Một hôm sau giờ dạy
học, một anh bạn ở gần barrack đến t́m tôi và mời tôi vào ban biên tập
báo Tự Do. Thoạt tiên, tôi ngần ngại. Tôi không có kinh nghiệm viết
báo, hơn nữa c̣n sợ bị lạc lơng v́ tất cả các anh chị trong ban biên
tập đều là người công giáo. Nhưng trước đó tôi đă được nghe nhiều
người trong trại ca tụng các đức tính hiền ḥa, nhân từ, chân thành và
cởi mở của cha Trí. Họ cũng đều khen ngợi ngài không những nói tiếng
Việt lưu loát mà c̣n viết tiếng Việt nhuần nhuyễn. Tôi cảm nhận rằng
được cộng tác với ngài là một vinh dự nên đă nhận lời. Tôi vội viết
một bài ngắn chào mừng Phật Đản cho số báo Tự Do kỳ tới, đồng thời
gắng chấm dứt lớp họa kỹ thuật sớm để tập trung toàn thời gian vào
công việc biên tập.
Quả thực làm báo
Tự Do rất bận. Báo tiếng Việt ra một tháng hai kỳ, vào đầu tháng và
giữa tháng. Trước khi ra một số báo, ban biên tập đóng góp bài vở,
viết về các hoạt động của trại và tin định cư, chọn bài của độc giả
gửi tới, trả lời thư tín, sửa bài, nhiều khi phải khai triển thêm hoặc
viết lại cả bài, phân phối đánh máy trên giấy stencyl, làm
proofreading, tŕnh bày, kẻ chữ tựa bài, rồi quay ronéo, cuối cùng là
đóng thành tập và phân phối. Tất cả những công việc trên thường đuợc
làm vào ban ngày, v́ vào buổi tối, đèn điện không đủ sáng. Ngay sau
khi số báo tiếng Việt được phát hành vào đầu tháng, chúng tôi huy động
nhân lực dịch một số bài được chọn trong báo đó ra riếng Anh, để chờ
thêm vài bài khác trong số báo sau. Nói một cách khác, từ hai số báo
tiếng Việt trong một tháng, chúng tôi chọn lọc một số bài để hoàn
thành một số báo tiếng Anh. Rồi ban biên tập lại bắt tay vào số báo
tiếng Việt kế tiếp cho kịp ngày phát hành giữa tháng. Chúng tôi không
có sách vở, tài liệu, cũng như thư viện để tham khảo, phần lớn viết
dựa vào hiểu biết sẵn có và trí nhớ của ḿnh. Tôi c̣n nhớ cha Trí đặt
mua dài hạn cho ban biên tập một báo tiếng Việt, Văn Nghệ Tiền Phong,
từ miền Đông Hoa Kỳ gửi đến, và một tuần báo tiếng Anh. Tuy hai báo đó
đến trại trễ khoảng 10 ngày đến hai tuần, chúng tôi cũng rất mừng và
chuyền tay nhau đọc. Cha Trí đóng góp rất đều đặn một bài cho mỗi số
báo. Cha thường đưa cho chúng tôi cả tuần trước bài tiếng Việt được
đánh máy sạch sẽ. Nhưng cha không đưa cho chúng tôi bản dịch tiếng Anh,
nên đến khi làm số báo bằng tiếng Anh, th́ một hai anh em giỏi Anh ngữ
trong ban biên tập chung sức dịch bài viết của cha sao cho thật sát
với nguyên tác. Tuy là chủ nhiệm, cha Trí hoàn toàn tin tưởng chúng
tôi và không đ̣i hỏi phải duyệt xem bản thảo trước khi phát hành. Có
lẽ ngài đă hài ḷng thấy ban biên tập làm việc sốt sắng, báo ra đúng
ngày và được đồng bào trong trại đón đọc thích thú cũng như sốt sắng
hưởng ứng gửi sáng tác cho chúng tôi.
Gần như mỗi tháng,
một hay hai anh chị em trong ban biên tập nhận đuợc giấy đi định cư.
Để tiễn đưa, chúng tôi đăi nhau bằng một chầu cà phê tại một quán nhỏ
trong trại. Sau đó là việc tuyển thêm người mới để bổ sung vào chỗ
trống. Rồi đến một hôm, đến lượt anh tổng thư kư bán nguyệt san Tự Do
chuẩn bị đi định cư tại Hoa Kỳ. Cũng như người tiền nhiệm, anh đến
trại một ḿnh, vợ con c̣n ở lại trong nước, nên đă dành toàn thời gian
cho việc làm báo. Anh đến gặp riêng tôi và yêu cầu tôi nhận thay anh
trong nhiệm vụ này. Anh cũng cho biết các anh chị em khác trong ban
biên tập và cả cha Trí đều tín nhiệm tôi. Tôi thấy khó từ chối, nhưng
rất e ngại không hoàn thành nhiệm vụ như những người tiền nhiệm.
Tôi đặt thêm mục
đố vui văn hóa để giúp độc giả trẻ t́m hiểu về văn hóa, nhất là lịch
sử và địa lư Việt Nam. Mục này được rất nhiều người hưởng ứng. Thỉnh
thoảng vài nhân viên ngoại quốc và Indonesia làm việc trong trại gửi
bài cho chúng tôi. Một hôm vị chỉ huy trưởng lực lượng cảnh sát trại
Galang đến gặp tôi. Ông ta là một thiếu tá người Indonesia, rất kính
mến cha Trí và đối xử tử tế với người tỵ nạn. Vị thiếu tá cảnh sát
trưởng đưa cho tôi xem một bài viết bằng tiếng Anh, nhờ tôi dịch ra
tiếng Việt và đăng trên báo Tự Do. Bài này đưa ra một số đề nghị xây
dựng giúp thanh thiếu niên trong trại tôn trọng kỷ luật để không gây
khó khăn cho cảnh sát. Tôi cố t́m hiểu hết ư của bài viết và dịch ra
tiếng Việt, đồng thời sửa vài chỗ trong nguyên tác để đăng trong số
báo tiếng Anh sắp tới. C̣n bài của cha Trí th́ chúng tôi thường chuyền
tay nhau đọc rồi đăng nguyên bài mà không sửa chữa. Ai cũng khen cha
viết tiếng Việt văn hoa, sáng sủa, ngoài ra cha lại c̣n biết dùng
thành thạo các thành ngữ, tục ngữ, hay ca dao Việt Nam. Nhưng có lần,
sau ngày phát hành báo, chúng tôi nhận được ư kiến của một số anh chị
trong gia đ́nh Phật tử Galang phàn nàn cha Trí có ư kỳ thị tôn giáo,
dựa vào một từ ngữ ngài dùng trong bài (rất tiếc tôi không c̣n nhớ từ
ngữ nào). Ban biên tập chúng tôi họp lại để phân tích từ ngữ đó, và
không thấy có một ư nghĩa kỳ thị, chia rẽ nào. Tuy vậy, chiều hôm đó,
tôi lên đồi nơi có nhà thờ và pḥng riêng của cha Trí, và tŕnh bày
với cha chủ nhiệm sự việc. Nghe tôi nói xong, ngài vẫn giữ vẻ mặt vui
tươi, yêu cầu tôi liên lạc với Thượng Toạ X. X. để cho ngài đến thăm.
Thượng Tọa X.X. mới nhập trại và là vị Thượng Tọa duy nhất tại Galang
lúc đó. Chiều hôm sau, tôi lên t́m cha Trí và được ngài chở trên chiếc
Vespa cũ kỹ đến gặp Thượng Toạ X. X. Tuy mới gặp nhau lần đầu, hai vị
lănh đạo tôn giáo nói chuyện rất vui vẻ và cởi mở. Cho đến lúc chia
tay, tôi không thấy vị nào nhắc đến bài của cha Trí trong số báo Tự Do
mới phát hành. Sau đó, tôi được biết Thượng Toạ X. X. định cư ở Bắc Mỹ
và hoạt động rất tích cực trong giới lănh đạo Phật Giáo Hải Ngoại.
Khi được tin tôi
cùng gia đ́nh có giấy báo định cư tại Hoa Kỳ, cha Trí đến gặp tôi và
trao lá thư cám ơn, trong đó với lời lẽ lịch sự và trang trọng, ngài
đề cao sự đóng góp của tôi cho bán nguyệt san Tự Do. Có thể lá thư này
đă giúp tôi t́m được việc làm tại Hoa Kỳ rất sớm và đúng với chuyên
môn. Ngày gia đ́nh chúng tôi rời Galang bằng tàu thủy qua Singapore để
đáp máy bay đi Hoa Kỳ, cha Trí lái Vespa đến tận bến tàu để tiễn. Cầm
tay ngài, tôi rất cảm động và hẹn sẽ gặp lại trên đất Mỹ. Quả thật,
ngài có qua Mỹ vào năm 1985, nhưng tôi được biết tin quá trễ, sau khi
ngài trở về trại tỵ nạn. Cũng như nhiều người từ giă trại để đi định
cư, chúng tôi luyến tiếc những ngày êm đềm trên đảo, những ngày mà tất
cả t́m lại được không khí tự do, an b́nh, bỏ lại sau lưng những sợ hăi,
bạo lực, đe dọa... Đến Galang, dân tỵ nạn t́m lại được sự yên ổn trong
cuộc sống khá trật tự và thoải mái. Nhất là họ tin rằng mỗi khi gặp
khó khăn sẽ có một người bên cạnh sẵn sàng bảo vệ, giúp đỡ hay an ủi.
V́ vậy, Galang được mệnh danh là Cửa Ngơ của Tự Do và T́nh Người.
Sau đó, thỉnh
thoảng tôi nhận được vài tin ngắn ngủi về cha Trí và trại Galang. Làn
sóng tỵ nạn gia tăng mạnh mẽ khắp Đông Nam Á. Cảnh sát Indonesia nhiều
lần bạo hành đối với dân tỵ nạn. Cha Trí đă quyết liệt đứng lên bênh
vực người dân yếu đuối. Có lần được cảnh sát hỏi v́ sao ngài cứ bênh
vực dân tỵ nạn hoài như vậy, ngài trả lời không do dự: ‘V́ quư vị có
quyền, có tiền, có súng, c̣n họ chẳng có chi hết’. T́nh trạng kỳ thị
bạo hành ở Galang lên đến cao độ, nhưng cha Trí quyết không lùi bước.
Cuối cùng, dưới áp lực của chính quyền Indonesia, vị linh mục tuyên úy
bị ngưng công tác và phải rời khỏi Galang. Bán nguyệt san Tự Do đ́nh
bản sau hơn 100 số báo tiếngViệt được phát hành. Số phận của tập san
được in trên giấy ronéo và phát hành nội bộ trong trại có thể sẽ bị
ch́m trong quên lăng. Tập san không có độc giả thường trực, v́ thuyền
nhân chỉ ghé lại đảo từ vài tháng đến 1 hay 2 năm. Khó người có trọn
bộ bán nguyệt san Tự Do từ số đầu đến số cuối. May thay, năm 1984, ông
Trần Đại Độ, lúc đó là tổng thư kư bán nguyệt san Tự Do, đă chọn 31
bài viết của cha Trí trong báo này và phát hành một tuyển tập với nhan
đề Việt Nam Quê Hương Tôi. Tuyển tập này, được tái bản năm 1987 tại
Bataan, Phi Luật Tân, năm 1990 và 1992 tại Hoa Kỳ, đă đưa người đọc
trở về sống lại không khí của trại Galang, và nhớ lại những suy tư,
tâm t́nh, cũng như lời khuyên nhủ chân thành của vị linh mục giàu ḷng
vị tha và nhân ái.
Với tâm Bồ Tát,
cảm nhận được cảnh khổ của người Việt tỵ nạn ở nhiều nơi khác, cha Trí
lập nguyện đến các nơi đó để phục vụ. Năm 1985, sau khi rời Galang,
ngài đến giúp đỡ thuyền nhân ở trại Bataan, Phi Luật Tân. Nhưng chỉ
vài năm sau, nạn bạo hành và kỳ thị dân tỵ nạn ở đó cũng trở nên trầm
trọng. Cha Trí mạnh dạn đứng lên bênh vực kẻ yếu thế chống lại cách
đối xử tàn nhẫn của chính quyền địa phương. V́ cương quyết bảo vệ dân
tỵ nạn đến cùng, ngài bị đe dọa nguy hiểm đến tính mạng, đến lúc đó
giáo hội phải đưa ngài ra khỏi trại. Rời Phi Luật Tân, không chút mệt
mỏi và nản ḷng, cha Trí lại t́nh nguyện đến phục vụ người Việt trong
các trại ở Thái Lan và Hồng Kông cho đến năm 1990 th́ được giao công
tác khác. Sau này, nh́n lại những năm sống với dân Việt tỵ nạn, ngài
nói: “Tôi có thể khẳng định rằng 13 năm sống trong các trại tỵ nạn là
13 năm hạnh phúc nhất trong đời tôi.”
Trong vài năm đầu
thập niên 90 phục vụ giới trẻ Việt Nam hải ngoại qua các khóa Linh
Thao, cha Trí soạn cuốn sách với tựa đề Đi T́m Anh Em bằng tiếng Việt,
tổng hợp những kinh nghiệm tâm linh. Làm tuyên úy phong trào Đồng Hành
của người Việt tại Bắc Mỹ, ngài đặt lại các giá trị gia đ́nh cũng như
sứ mệnh của giáo dân trong thiên niên kỷ mới trong tác phẩm thứ ba của
ngài, Family 2000.
Nhưng tiếng gọi
hiến dâng cho người dân khốn khó lại thúc đẩy ngài lên đường t́m về
những người Việt Nam bần cùng. Lần này, ngài không đến các trại tỵ nạn,
phần lớn đă bị đóng cửa, mà trở về sống ngay trong nước. Ngài trở về
quê hương Việt Nam lần đầu tiên vào năm 1989, và nhiều lần nữa, trong
những chuyến đi công tác giáo dục ngắn ngủi trong suốt 12 năm sau đó,
kể cả những năm cuối đời mắc bệnh nan y. Theo gương thánh Phanxicô Khó
Nghèo cùng quê, ngài đă sống ḥa ḿnh để giúp đỡ người dân bần hàn,
chất phác.
Năm 1996, cha Trí
được gọi về Rôma để phục vụ trong nhà tĩnh tâm Galloro của Ḍng được 2
năm th́ bị phát hiện có bệnh ung thư. Từ năm 1998, ngài phấn đấu chống
căn bệnh hiểm nghèo qua giải phẫu và chemotherapy. Tuy bị đau đớn,
ngài luôn luôn hiền ḥa, kiên nhẫn và vui vẻ. Ngài b́nh thản chấp nhận:
“Có bệnh th́ phải chữa, khỏi th́ làm việc tiếp, chết th́ về với Chúa”.
Thoạt tiên, bệnh có vẻ đuợc chế ngự, nhưng sau đó lại phát triển mạnh
hơn. Đầu năm 2003, bộ phận gan ngưng hoạt động, và ngài từ trần lúc
12:30 sáng ngày 3 tháng 3 năm 2003. Theo đúng ư nguyện, ngài được tẩm
liệm mặc áo lễ và tay cầm tràng hạt mân côi, gợi lại h́nh ảnh quen
thuộc của ngài trong nhiều năm phục vụ thuyền nhân Việt Nam khắp vùng
Đông Nam Á. Thánh lễ an táng tại Rôma do người bạn học cùng lớp với
ngài, giám mục Antonelli cai quản địa phận Florence, nước Ư, làm chủ
tế cùng với hơn 50 linh mục. 20 linh mục Việt Nam tại Rôma đă tham dự
thánh lễ này. Tại Nam California, Hoa Kỳ, không kể nhiều thánh lễ do
cá nhân xin riêng, hai thánh lễ trọng thể cầu nguyện cho linh hồn cha
Trí trong hai tuần kế tiếp đă được đông đảo cựu thuyền nhân cũng như
thành viên của phong trào Đồng Hành tham dự.
H́nh ảnh vui tươi
giản dị, nụ cười hiền ḥa, cởi mở và cách phát âm tiếng Việt đúng
giọng của vị linh mục người Ư mang tên Việt Nam Đỗ Minh Trí khó phai
mờ trong tâm trí những ai đă từng gặp gỡ ngài. Riêng đối với những
người đă có nhiều dịp gần gũi, th́ ngài quả là một vị chân tu đầy ḷng
bao dung, nhân ái, sống ḥa ḿnh với người nghèo khó, mang đến họ t́nh
yêu thương và niềm vui sống. Với ḷng yêu thương người Việt Nam vô hạn,
ngài nhập cuộc với thuyền nhân, mang tấm ḷng Bồ Tát đi từ trại tỵ nạn
này đến trại tỵ nạn khác, hiến dâng tất cả để bảo vệ, an ủi, giúp đỡ
kẻ khốn cùng cô thế. Ngài c̣n có một ư chí sắt đá của người quân tử
Đông phương, quyết tâm xả thân cho việc nghĩa, cúc cung tận tụy cho
đến hơi thở cuối cùng.
Ghi chú: Những
chữ in nghiêng trong bài này được trích trong cuốn Việt Nam Quê Hương
Tôi của Cố Linh Mục Đỗ Minh Trí.
|
|