|
Cha
Gildo Dominici, linh mục Ḍng Tên người Ư, sinh
năm 1935 tại Assisi, qua đời v́ ung thư
ngày 3.3.2003 tại Rôma. Từng là thừa sai
tại Việt Nam, cha mang tên Việt Nam là Đỗ
Minh Trí.
Tôi gặp
cha Gildo Dominici lần đầu năm 1968, tại
Trung Tâm Đắc Lộ ở Saigon. Đó là
một buổi chiều, cha đang đi dạo
trong sân. Thấy một cha lạ, tôi chưa
biết là ai, nhưng cha đă chào tôi trước,
bằng tiếng Việt. Tôi hỏi: “Cha người
nước nào?” Cha vừa cười vừa
trả lời bằng thứ tiếng Việt
của người Châu Âu mới học: “Tôi là
người Việt Nam!” Tôi rất ngạc nhiên,
muốn nói chuyện thêm, nhưng cha chỉ
biết nói bấy nhiêu thôi!
Từ
năm 1970, cha làm giáo sư ở Giáo Hoàng Học
Viện Thánh Piô X Đàlạt, nơi tôi học.
Từ năm 1972, cha làm quản lư cộng đoàn
học viện Ḍng Tên, nơi tôi ở. Làm giáo sư
th́ xa xa, không sao, nhưng làm quản lư th́
rất gần. Cha là người Ư, chắc không
khó tính. Nhưng ai đó cho tôi biết cha là
tiến sĩ luật. Một tiến sĩ
luật đi làm quản lư! Tôi nghĩ ngay đến
các tiến sĩ luật trong Tin Mừng, thời
Chúa Giêsu, và ... không mấy có cảm t́nh. Tôi
tự nhủ: “Phải dè dặt thôi!”
Tiếng
Việt của cha lúc này đă khá, có thể giao
tiếp với mọi người, có thể dâng
lễ và giảng được. Mỗi ngày sau
bữa ăn trưa và bữa ăn tối, chúng
tôi thường đi bộ một chút ở sân
và nói chuyện với nhau. Dần dần tôi khám
phá ra một cha Đỗ Minh Trí khác hẳn
với những điều tôi nghĩ lúc đầu.
Ước nguyện nóng bỏng nhất của
cha là được chia sẻ với những người
b́nh thường nhất, nghèo khổ nhất.
Việt Nam chẳng những nghèo mà lúc ấy
đang có chiến tranh, chính v́ thế cha muốn
đến Việt Nam. Cha hạnh phúc khi được
ở giữa những người nghèo khổ
để học với họ cuộc sống làm
người, làm tín hữu, giữa muôn vàn sóng
gió và thử thách. Cha luôn băn khoăn về
nếp sống của các linh mục và tu sĩ h́nh
như gần với những thành phần khá
giả và trở nên ít nhiều quan liêu. Tôi nghĩ
thầm là cha hơi lư tưởng, phần nào
ảo tưởng và cả đến không tưởng.
Nhưng cha
không phải là một người chỉ mơ
với mộng. Rất thực tế: hằng ngày
cha phục vụ cộng đoàn từ việc
ăn uống đến mọi nhu cầu vật
chất rất chu đáo. Chắc chắn cha không
phải là một người có đầu óc
tổ chức của một nhà quản trị.
Vả lại tiếng Việt của cha chỉ là
vừa đủ chứ không thể nói là “như
gió” được. Nhưng cha thích nghi rất
giỏi: bằng cách ... cười! Cha không thông
thạo lắm về cách ăn uống của người
Việt Nam. Ở học viện, hầu như chúng
tôi không uống rượu bao giờ. Rồi
ăn cơm kiểu hoàn toàn Việt Nam, chắc
chắn khác hẳn ở Ư. Nhưng không bao
giờ nghe cha than phiền hay đ̣i hỏi chi
hết. Cha thường nói nửa đùa nửa
thật về việc uống rượu: “Chúa
ban rượu ngon cho phấn khởi ḷng người”,
vậy mà người Việt Nam không uống rượu,
đời sống làm sao vui được?
Chẳng
những vậy, cha c̣n rất thích đi Bảo
Lộc ở tỉnh Lâm Đồng: hễ có
dịp là cha đến ở với giáo dân
miền quê. Cụ thể hơn, cha cảm
thấy hạnh phúc đặc biệt với
những người miền quê, quây quần bên
mâm cơm gia đ́nh trên manh chiếu trải ngay
giữa nền nhà, vắt áo dài trên vai đi
lễ, nói thứ tiếng Việt không có trong
từ điển như “nạy cha” hay “cây
rừa”, khiến cha nhiều phen lúng túng v́ không
hiểu! Không biết ai đă chuyển tên cha
từ tiếng Ư là Dominici sang tiếng Việt là
Đỗ Minh Trí, h́nh như người nào đó
ở Bảo Lộc, chỉ biết là cha rất
hănh diện về tên của ḿnh, tự coi như
ḿnh thực sự là người Việt Nam, v́ tên
chính là người. Có lần tôi nói đùa:
“Cha sửa lại giấy khai sinh đi, nơi
sinh là Bảo Lộc chứ không phải Assisi!”
Cha đáp: “Assisi là quê của thánh Phanxicô,
Bảo Lộc là quê của tôi!” Rồi cha nói
với tôi về ư định mạo hiểm
với Chúa Giêsu, đặc biệt trong mầu
nhiệm Nhập Thể.
Tôi chỉ
theo học với cha một giảng khóa về
“Các nhân đức.” Tôi vốn có ít
nhiều thành kiến về “luân lư”, nên coi
thần học luân lư như điều cực
chẳng đă phải học th́ học thôi,
chứ không hứng thú chi. Chẳng những
vậy, phải thú thật là cha giảng không
hấp dẫn mấy. Tuy nhiên, những điều
tôi học được trong giảng khóa
ấy, nhất là trong giáo tŕnh cha soạn, đă
mở cho tôi một nhăn quan mới với
những chân trời mới, từ các ngôn sứ
đến Chúa Giêsu trong Tin Mừng, từ các giáo
phụ đến Công đồng Vaticanô II,
cả nền luân lư Nho Giáo và quan niệm về
đức hạnh của người Việt Nam
nữa. Luân lư không chỉ là những chuyện
của các cụ già lẩm cẩm mà là cuộc
sống cao đẹp, vừa rất nhân bản
vừa rất thánh thiện của con cái Thiên Chúa.
Trước kia tôi nghĩ các nhân đức
chỉ là những ràng buộc con người
trong những cái rọ chật chội và g̣ bó. Làm
người, sống như con cái Thiên Chúa, nên thánh…
tất cả đều mời gọi tôi vươn
tới. Tôi thấy Chúa Giêsu sống như con Thiên
Chúa và anh em của con người. Tôi thấy chính
ḿnh phải thoát ra khỏi những cái khuôn không
óc không tim. Bên ngoài cha sống rất b́nh dị,
lại ăn nói không hấp dẫn lắm, nên
thật tôi không ngờ trái tim cha có một
chiều sâu nhân bản và thiêng liêng đáng
cảm phục như vậy.
Tiếng
Việt nhiều khi trở thành một trung gian
để cha tạo niềm vui. Một hôm đi
đường, chúng tôi gặp hai người
đang căi nhau gay gắt: họ nói thứ
tiếng Việt phi văn phạm và phi từ
điển. Dĩ nhiên cha không hiểu được,
nên hỏi tôi: “Họ nói ǵ?” Tôi đề
nghị: “Cha đến bảo họ nói chậm
thôi, nói nhanh quá không hiểu được!”
Cha nói ngay: “Làm ơn nói chậm chậm... "May
mà họ nhận ra cha là một người nước
ngoài, không th́ hôm ấy tôi lănh đủ!
Một hôm khác, ở bờ biển Nha Trang, cha
đến làm quen mấy em bé. Các em ngạc nhiên:
“Ông Mỹ!” Cha tỉnh bơ: “Tôi là người
Việt Nam!” Một phụ nữ bán hàng rong
đứng gần đó phản đối:
“Mặt mũi thế kia mà xưng là người
Việt Nam!” Cha trả lời: “Tôi là người
Việt Nam, gốc Hà Nội.” Đến đây
th́ bầu khí trở nên vui vẻ. Một số
người bán hàng rong khác quên cả việc buôn
bán đến nói chuyện với cha. Người
ta đố cha cái này gọi là ǵ, cái kia gọi
là ǵ… cha trả lời được hết.
Cuối cùng, một phụ nữ đưa cái
đ̣n gánh lên hỏi: “Cái này kêu bằng ǵ?”
Cha trả lời bằng một câu có lẽ ít
ai ngờ được: “Cái đó ở Hà
Nội không có, tôi không biết!” Mọi người
được một trận cười vỡ
bụng.
Sau năm
1975, suốt gần 15 năm, ở Saigon, tôi không
có một tin tức nào về cha, nhưng h́nh
ảnh của cha luôn sống động và giúp tôi
sống ơn gọi linh mục với anh em Ḍng Tên,
với giáo dân và với mọi người. Trong
số các cha các thầy Ḍng Tên nước ngoài
đă ở Việt Nam trước năm 1975, cha
là người đầu tiên trở lại thăm
Việt Nam. Đó là năm 1989. Tôi dẫn cha
đi thăm đây đó. Ngôi nhà thờ như
một cái kho, những tập thánh vịnh chép
tay, một cộng đoàn giáo dân nhỏ bé và
đơn sơ, những người bệnh phong
nghèo khổ, những anh em Ḍng Tên ḥa ḿnh với
mọi người giữa các nông trường:
mọi sự đối với cha đều là
những điều kỳ diệu. Cha kể cho tôi
nghe hai kinh nghiệm ở trại tỵ nạn.
Hằng ngày, cha đến gặp Chúa Giêsu Thánh
Thể, và thấy được khích lệ
ở giữa các thuyền nhân như chính Ngôi
Lời đă làm người và ở với con
người. Một hôm, cha bị cảnh sát
Indonesia chất vấn: “Tại sao mỗi khi có
bất đồng giữa chính quyền và người
tỵ nạn, ông luôn luôn đứng về phía
họ?” Cha trả lời: “V́ quư vị có
quyền, có tiền, có súng, c̣n họ chẳng có
chi hết.” Sau đó ít lâu, cha nhận được
một lá thư, nhưng khi mở ra, cha thấy
vỏn vẹn một viên đạn cùng với
mấy chữ: “Xin mời ông đi nơi khác.”
Thế là bề trên bảo cha đi. Tôi có
cảm tưởng cha luôn luôn tha thiết với
mầu nhiệm Nhập Thể, nhưng Chúa
lại muốn dẫn cha đi xa hơn nữa.
Tôi hỏi
cha về hai cuốn “Việt Nam Quê Hương Tôi”
và “Đi T́m Anh Em”, cha nói: “Đó là vài ba suy
nghĩ vụn vặt thôi.” Khi đọc “vài
ba suy nghĩ vụn vặt” ấy, tôi hiểu hơn
về hai điều trong ḷng cha: Có một
Việt Nam rất đặc biệt và có một
Chúa Giêsu đầy nhân tính.
Việt Nam
quê hương của cha không phải là thịt
chó hay thuốc lào, không phải là dăy Trường
Sơn hùng vĩ hay đồng bằng Cửu Long
trù phú, không phải là vịnh Hạ Long di
sản thiên nhiên thế giới hay những băi
biển cát trắng có thể tắm quanh năm,
cũng không phải là thành phố Saigon nhộn
nhịp, thành phố Đà Lạt thơ mộng,
thành phố Huế trầm tư, nhưng chính là
những tấm ḷng cởi mở, đầy
ắp t́nh người, những nụ cười
hiền hậu và những mời chào thân ái, là
những cuộc đời trải qua nghèo
khổ nghiệt ngă và chiến tranh tàn khốc,
nhưng vẫn vui tươi và lạc quan,
vẫn tha thứ và hy sinh. Chúa Giêsu của cha không
phải đơn thuần là một vị
thần để người ta tôn thờ, hay
một nhà luân lư nghiêm khắc với những
mệnh lệnh khô khốc, những lời khuyên
nhàm tai hay những dọa nạt ấu trĩ, nhưng
là một người anh em giữa những anh em,
nhất là những anh em nghèo khó và đau
khổ, để lắng nghe, để chia
sẻ, để đồng hành. “Đi t́m anh
em” của cha không phải là bắt chước
một triết gia Hy Lạp thắp đuốc
đi t́m một người trên đường
phố đông đúc giữa ban ngày, nhưng là
“đến với anh em”, “trở nên anh em”
của người khác, giữa cuộc sống
đan kết bằng nụ cười và nước
mắt, như Chúa Giêsu đă “không hổ
thẹn gọi con người là anh em”. Đó là
lư do giải thích tại sao cha vào Ḍng Tên,
tại sao cha đến Việt Nam, tại sao cha
giúp các trại tỵ nạn. Trái tim cha là
một giao điểm giữa Chúa Giêsu và tâm
hồn Việt Nam.
Việt Nam
đối với cha rất dễ thương, nhưng
không phải luôn luôn dễ dàng. Một hôm tôi
đưa cho cha xem cuốn “Tiếng Ư dễ như
chơi” (LItalien sans peine), cha nói: “Tiếng Ư th́
học dễ như chơi được, c̣n
tiếng Việt Nam th́ phải đổ mồ hôi
nước mắt mới học được.”
Tôi nói: “Mai mốt con sẽ soạn cuốn
tiếng Việt dễ như chơi cho cha coi.”
Cha lắc đầu quầy quậy: “Mâu
thuẫn nội tại! Không thể có một h́nh
tṛn vuông, cũng không thể có tiếng Việt
dễ được.” Rồi cha thêm: “Chắc
chắn khi chết tôi sẽ lên thiên đàng ngay,
không phải qua luyện ngục, v́ tôi đă
học tiếng Việt nên đền tội
đủ rồi.” Một hôm cha phải lái xe
từ Ngă Tư Bảy Hiền đến Chợ
Bến Thành ở Saigon. Vượt qua quăng
đường 5 km ấy thật là cực
khổ, cha b́nh luận: “Ai lái xe được
ở quăng đường này th́ đáng
được cấp bằng lái xe quốc
tế.” Ngoài ra, mặc dầu được giáo
dân quư mến, nhưng v́ hay “đặt vấn
đề”, nên không phải lúc nào cha cũng
được mọi người hiểu và chia
sẻ, nhất là những người chủ trương
“ổn định”, kể cả trong hàng lănh
đạo của Hội Thánh. Có lần cha
tỏ ra trầm ngâm: “Chúa Giêsu đến
trần gian thời nào và ở đâu có lẽ cũng
bị các nhà lănh đạo từ chối!”
Quả thật để có thể tự xưng
là người Việt Nam đối với cha không
phải là một điều dễ dàng, nhưng
cha đă vượt qua được tất
cả.
Những năm
gần đây, có nhiều dịp cha trở
về Việt Nam và tôi thường may mắn
được gặp lại cha ở Saigon. Cha
mang trong ḷng một ước nguyện cháy
bỏng được về ở luôn tại
Việt Nam. Thực ra, cha vẫn giúp người
Việt Nam ở Canađa và Hoa Kỳ về đời
sống thiêng liêng. Nhưng h́nh như cả
ở trong các trại tỵ nạn Đông Nam Á
đầy bấp bênh hay ở các thành phố
Bắc Mỹ đầy tiện nghi, cha vẫn
thấy không ở đâu t́m được
chất Việt Nam đặc trưng bằng chính
tại Việt Nam. Để chuẩn bị ngày
trở lại Việt Nam, cha chia sẻ với tôi
là cha sẽ dành ra hai năm đi học bồi dưỡng
về thần học luân lư để khi nào chính
quyền cho phép th́ sẵn sàng trở lại “đi
t́m anh em” ngay tại “Việt Nam quê hương
tôi”. Tôi hỏi cha c̣n thích lên Bảo Lộc không,
cha trả lời ngay: “Đó là quê hương
thứ nhất của tôi! Nhưng với thần
học luân lư, có thể tôi hữu ích hơn.”
Tôi cố mường tượng h́nh ảnh
một vị tiến sĩ giáo sư thần
học đă hơn 60 tuổi, đă từng là
giáo sư của nhiều giáo sư, đă
từng lăn lộn trong các trại tỵ
nạn, đă từng hướng dẫn Linh Thao
bằng tiếng Việt trên đất Mỹ, ngày
ngày cắp sách đến lớp... v́ hy vọng
một ngày nào đó được trở
lại Việt Nam. Tôi nghĩ đến Giêrusalem
của thánh I-nhă, vùng Đông Á của thánh
Phanxicô Xavier... Cuối cùng tôi hiểu rằng Thiên
Chúa tạo ra cho mỗi con người một trái
tim và ban cho những người anh em ở đâu
đó, phải đi t́m, và khi t́m được
ở đâu th́ nơi đó trở thành quê hương
của ḿnh.
Tôi gặp
cha lần cuối cách đây hơn một năm
tại Việt Nam. Được biết cha
bị ung thư, tôi hơi băn khoăn, nhưng
cha tỏ ra rất b́nh thản: “Bệnh th́
phải chữa, khỏi th́ làm việc tiếp,
chết th́ về với Chúa.” Thật đơn
giản, nhưng tôi nhận ra điều đó
phản ánh rất rơ một nét đặc trưng
của tâm hồn người Công Giáo Việt
Nam, có lẽ cách riêng là giáo dân miền quê
ở Bảo Lộc. Suốt đời cha mong
được ở với người Việt
Nam, ngay tại đất nước Việt Nam,
nhưng những ngày tháng cuối đời cha
phải ở xa Việt Nam. Dầu vậy,
thực sự trái tim cha vẫn ở giữa
những anh em Việt Nam của cha, v́ trái tim
ấy đă bị một Chúa Giêsu có lẽ
rất Việt Nam chinh phục. Khi được
tin cha mất, tôi đang ở xa Việt Nam, nên
thấy có được một đồng
cảm nào đó với cha. Và tôi nghĩ chính ḿnh
sẽ phải tiếp bước cha “đi t́m
anh em” ngay trên “Việt Nam quê hương tôi”.
Paris ngày 12
tháng 3 năm 2003
Linh
mục Cosma Hoàng Văn Đạt, Ḍng Tên.
|
|