|
Trời mưa suốt
mấy ngày qua, mưa thâu đêm tới sáng, nh́n trời sũng nước, tôi ngại
ngùng không muốn cất bước lên đường, nhưng rồi một sức mạnh vô h́nh
đă dựng tôi đứng dậy và đẩy tôi bước tới, tôi leo lên xe gắn máy đi
như xé mưa, ngang qua từng buôn làng đang ch́m trong mưa gió, tôi
nghĩ đến hoàn cảnh của biết bao người con đă được sinh ra trong ơn
phúc, giờ này đang bị cơn đói và giá lạnh dày ṿ. Mưa vẫn rơi, những
giọt mưa lọt qua khe áo làm tôi thấm lạnh, và đă thấm ướt ḷng tôi,
mắt tôi nhạt nḥa.
Tôi vẫn đi, có
tiếng ai gọi “Bố ơi”. Tôi dừng xe, một giáo lư viên chạy tới, chúng
tôi nói nói vài câu rồi chia tay, v́ tôi phải đi tiếp theo giờ hẹn.
Câu nói cuối cùng của anh ta theo tôi dọc suốt đoạn đường: “Bố ơi,
sao bố bỏ chúng con”.
Quả thực, tôi
đă rời bỏ vùng này từ hai năm nay để tiếp tục bước lữ hành đến những
chân trời mới. Thế nhưng chân bước mà ḷng vẫn canh cánh nhớ thương,
và hôm nay trở lại, tôi đang cố h́nh dung từng khuôn mặt trong cảnh
sống hiện tại. Hai năm trời xa cách, nhiều giông gió, thêm những
ngày đói khát, thêm những khuôn mặt hốc hác. Hơn bao giờ hết, tôi
muốn đến từng nhà, thăm từng người, đến ở với bà con thôi chứ không
cần phải làm ǵ cả: bố con gặp nhau, ngồi ca hát rồi cầu nguyện,
siết chặt tay nhau trong lời kinh tạ ơn và chúc tụng của ngôi Con
(x. Lc 10,21), và thế là tất cả đều ấm ḷng.
Đúng 9 giờ tôi
có mặt tại điểm hẹn, một nguyện đường, một nhà nguyện trên đường,
đúng ra đó là một gian nhà nhỏ dùng làm cung thánh nối tiếp một mái
nhà dài đủ cho 500 người đứng dự lễ mà không bị mưa nắng. Thánh lễ
hôm nay mừng kính Đức Mẹ Lên Trời, do đó bà con từ khắp nơi đổ về
rất đông, bất chấp mưa gió, và thế là tôi gặp lại được rất nhiều
người.
Từng khuôn mặt
reo vui ào tới nắm lấy tay tôi, ơi ới gọi bố ơi, có người lại nói
như hờn trách: bố bỏ chúng con lâu quá. Tôi siết tay từng người, lớn
bé già trẻ và cả những trẻ sơ sinh, thỉnh thoảng tôi ngừng lại để
ngắm nh́n cho thỏa nhớ thương, rồi lại để cho đôi bàn tay nắm bắt
những bàn tay, bồng ẵm các em bé và nhận lănh những cái hôn của các
cụ già. Bố con tíu tít măi tới giờ lễ mới thôi.
Vị linh mục trẻ
tiến ra dâng lễ trong khi trời mưa như trút, lời đầu tiên là cảm tạ
hồng ân đức tin, một dức tin không ǵ ngăn cản nổi, dù mưa gió, giá
lạnh, dù lặn lội đường xa, và sau tràng pháo tay gịn giă, một bầu
khí trang nghiêm thánh thiện bao trùm tất cả, làm nổi bật khuôn mặt
dịu hiền của Đức Nữ Trinh, Mẹ đă đi với Con dọc suốt hành tŕnh thập
giá, cũng có mặt trên đường với những người con đang bước đi giữa
mưa gió và giá lạnh. Đứng cạnh tôi một bé gái gày g̣, mặc chiếc áo
mỏng manh, ho sù sụ mà khuôn mặt vẫn sáng ngời. Tôi nh́n em, ái ngại,
không biết thiên thần nhỏ của tôi rồi đây ra sao! Một giáo lư viên
ghé sát tai tôi nói nhỏ: bố ơi, sông suối núi rừng lúc này nhiều sói
quá. Tôi biết đoàn chiên của Chúa đă nhiều phen rúm ró, nhưng tôi
cũng tin chắc Chúa chiên nhân hậu chẳng bao giờ bỏ rơi đoàn chiên.
Tôi không trả lời, chỉ lặng nh́n và siết chặt tay anh. Thánh lễ hôm
nay đầy tràn hồng ân, v́ hơn 100 người được lănh nhẫn bí tích rửa
tội, 100 em được rước lễ lần đầu, và một đôi trai gái tiến lên cử
hành bí tích hôn phối. Mối t́nh của đôi trẻ kia tưởng như riêng tư
nhưng lại chung suối nguồn t́nh yêu mà ở đó các thế hệ cha mẹ, ông
bà cũng đă lănh nhận, và đă sống hạnh phúc giữa bao vất vả, vượt qua
bao mùa đói khát.
Chia tay nhau,
đường đời vạn ngả. Tôi h́nh dung ra những con đường trơn trượt, xa
xôi, nhiều người lại chưa có ǵ bỏ vào bụng. Dẫu biết rằng nhịn ăn
một bữa cũng chẳng sao, nhưng tôi vẫn áy náy, nhất là khi nghe vang
dội trong ḷng lệnh truyền của Thầy: “các con hăy lo cho họ ăn” (x.Mt
14,16 ). Chúa coi, bà con đă lên đường về cả rồi, con xin hẹn lần
tới.
Theo lịch hẹn
là vào ngày lễ các Thánh. Hôm nay trời không mưa và nắng cũng dịu.
Số người ra dự lễ đông hơn. Chia tay lần này có cơm nắm cho mỗi sóc
ăn chung đâu đó trên đường về.
Gần đến ngày 3
tháng 12, tôi trở lại vùng đất tôi đă đặt chân đến đầu tiên để sửa
soạn tiếp đón bà con về dự lễ. Vào ngày này năm 1992, những người
S’Tiêng đầu tiên đă lănh nhận bí tích rửa tội, hôm đó có trên một
trăm năm chục người, những năm tiếp theo, cứ đến ngày này là bà con
kéo nhau về họp mặt, thêm số người được rửa tội. Đặc biệt ngày 3
tháng 12 năm 1996, số bà con lănh nhận bích tích rửa tội là 650
người, hai tuần lễ sau lại có thêm 180 người nữa lănh nhận bí tích
rửa tội tại một nhà nguyện nhỏ. Thế là cứ ngày 3 tháng 12 hằng năm,
già trẻ lớn bé lại bồng bế nhau về. Tới ngày 3 tháng 12 năm 1999,
ngày khai mạc năm thánh hai ngàn cho vùng này, con số bà con về dự
lễ đă trên hai ngàn, và cuối năm thánh hai ngàn là 2400 người.
Làm sao chúng
tôi có thể tiếp đón một lượng người đông như thế hàng năm, mà tiếp
đón ở đây có nghĩa là nấu cơm cho bà con ăn uống, lo đủ nước cho bà
con tắm giặt, lo chỗ ngủ và sinh hoạt, giúp bà con cầu nguyện, dọn
ḿnh xưng tội, ôn giáo lư và tập các nghi thức cho những người được
lănh nhận bí tích rửa tội.
Thực ra, bà con
giáo xứ ở đây rất nhiệt t́nh, mọi người đều nô nức chờ đón ngày này
và sẵn sàng phụ giúp một tay một chân, rồi c̣n cho thêm gạo, mắm,
rau, chuối. Đây là một giáo xứ có truyền thống truyền giáo. Một số
anh chị em đă lên đường trước khi có linh mục được phép về vùng này.
Dạo đó, hằng năm mọi người góp công tỉa lúa trên miếng đất chung, và
thế là giáo xứ luôn có một kho lúa để tiếp đón bà con.
3 tháng 12 năm
nay 2001, chúng tôi dự tính đưa bà con trở về với những lễ hội
truỵền thống, mỗi giờ cầu nguyện sẽ kèm theo các điệu cồng chiêng và
ca múa, cho lời kinh mang âm điệu của núi rừng, cho đến một lúc trở
thành tiếng reo vui của núi rừng, sông suối và con người trước tôn
nhan Thiên Chúa. Chúng tôi muốn bà con họp nhau lần này cùng ḥa
nhịp trong tiếng cồng chiêng, lần đầu tiên được cất lên như lời kinh
của núi rừng, ḥa nhịp vào hơi thở của các thế hệ cha ông từ muôn
đời trước, và cũng là để đón bước chân của cha ông đổ về họp mặt với
con cháu. Dễ thương quá, mới chỉ h́nh dung thôi mà tôi như nghe thấy
tiếng chân người dồn dập, làm xôn xao núi rừng, và làm muông thú ngơ
ngác.
Có thức với bà
con thâu đêm bên chén rượu cần, vừa chuyện tṛ vừa đánh cồng chiêng
mới cảm nhận được phần nào âm điệu của núi rừng và nhịp sống con
người nơi đây. Cồng th́ chỉ có hai ba điệu nhưng âm vang gịn giă và
bay bổng; chiêng có nhiều điệu nhưng âm vang cứ như len lỏi giữa
cành cây kẽ, làm cho con người măi gắn bó với núi rừng. Tiếng cồng
chiêng đều đặn, mang lời ru, trao hơi thở cho cỏ cây, suối nước, th́
thầm với hạt lúa, cái tố, cái ché. Khi nhà hết gạo, người ta gọi lúa
ơi, đi đâu cả rồi, nhà này đă làm ǵ để lúa giận lúa hờn; khi nhà
hết rượu, người ta gọi cái tố cái ché ơi, mang rượu về thôi. Cứ thế,
con người ḥa quyện với thiên nhiên.
Sứt-jun, chết
con nai, đó là điệu đồng la loan báo một bữa tiệc lớn, rượu th́ ngon,
thịt th́ béo, mời mọi người đến chung vui. Núi rừng dễ thương như
vậy đó, một con nai chết, cả làng chia nhau ăn. Một con nai dính bẫy,
đâu phải riêng cho một nhà, v́ cả làng đều là ḍng họ, cả làng là
con một Cha, và điệu đồng la này chính là lời kinh của đoàn con cùng
ḥa nhịp gọi Cha ơi, Abba, chung vui trong bàn tay Cha dịu hiền.
Thôt, thốt,
thốt thà thốt. cánh diều bay bổng, đó là lời kinh cửa những con
người sống giữa núi rừng mà ḷng vươn cao, rất cao, cao hơn cây cao
nhất của rừng. Ông bà không gọi bà rừng, củng không gọi thần nước
hay thần rẫy, sợ lắm, nhưng gọi Kôrăn, gọi Chúa tể muôn loài. Tiếng
gọi thay lời kinh, lời kinh là tiếng gọi nhịp nhàng, đều đặn theo
nhịp đập của con tim: yêu mến và hy vọng.
Sâo khuôl daă -
nước lên - tiếng chó sủa hập hập theo nhịp nước lên, tiếng nước vỗ
vào gốc cây nghe hập hập, trong nhà, mọi người co cụm, ngơ ngác. Vui đấy,
nhưng cũng có thể buồn v́ ai biết chuyện ǵ xẩy ra nơi nương rẫy khi
mưa rừng đang đổ làm nước chẩy tràn lan. Và điệu đồng la được cất
lên xóa tan mọi lo âu sợ sệt: điệu đồng la mang hơi thở, như tiếng
con người th́ thầm bên tai nhau, quyết thương yêu đùm bọc lẫn nhau.
Trăng lên phía
chân trời, con chim cú mèo ngồi trong hốc cây cất tiếng gọi trăng
lên, tiếng gọi có lúc dồn dập ḥa thành điệu chiêng. Trăng lên, lên
tới giữa trời, con người cũng vươn theo, măi tới tận nơi ở của Koran
Trô Tiêh: Chúa tể trời đất.
C̣n 4 ngày nữa
là đến ngày hội, chúng tôi lo kiếm củi, đào các đường mương, che
chắn thành khu vệ sinh. Thế nhưng ngày hôm sau, có ǵ đó bất ổn, và
hôm sau nữa, không được rồi, những ngày họp mặt truyền thống không
được gọi là truyền thống, nhưng nếu gọi là lễ bổn mạng th́ không có
trong số những ngày lễ trọng, và thế là ngày 3 tháng 12 năm nay hoàn
toàn vắng lặng, đành phải chờ đợi năm sau vậy. Nhưng năm sau cũng có
nghĩa là không bao giờ. Chúng tôi thật không ngờ những ngày hội mồng
3 tháng 12 năm thánh hai ngàn lại là những ngày hội cuối cũng của bà
con các sắc tộc vùng này.
Khi có ư định
đưa bà con trở về với những lễ hội truỵền thống, chúng tôi cũng muốn
giúp bà con mở sách Tông Đồ Công vụ, họa lại cuộc sống của Hội Thánh
buổi sơ khai, và biến cố vừa qua đă thực sự dẫn đưa chúng tôi vào
hành tŕnh này:
Được Hội Thánh
sai đi nhân danh Chúa Giêsu, chúng tôi luôn cảm thấy ḿnh nhỏ nhoi
trước cánh đồng, và càng nhỏ nhoi hơn nữa trong những hoàn cảnh khó
khăn. Bé nhỏ, yếu đuối, bất lực, và hành tŕnh nhiều phen lê thê.
Lúc này hơn lúc nào hết, chúng tôi khao khát khuôn mặt của Hội Thánh
sơ khai, “đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện.” (Cv.1,14), siết
chặt tay nhau, chung sức chung ḷng. Chúng tôi vẫn thường bảo nhau:
cánh đồng truyền giáo đâu phải chuyện kinh doanh mà tự tung tự tác;
phục vụ sứ vụ của Chúa Giêsu chứ đâu phải chuyện riêng tư mà mặc sức
tung hoành. Biết ḿnh là người của Hội Thánh, phải ra đi trong khuôn
khổ Hội Thánh: �chuyên cần lắng nghe Lời, luôn luôn hiệp thông với
nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng� (Cv
2, 42) và rồi lên đường �với ḷng đơn sơ vui vẻ�. (Cv 2, 46).
Mùa chay 2002
|
|