|
Trong tiếng Việt
có những kiểu nói mang nghĩa rất gần với nhau, đến mức độ có thể dùng
lầm đôi khi, chẳng hạn như “căn nhà” và “nhà”. Thực ra, hai cách nói
này có những nghĩa rất khác nhau. Đối với cách nói “cái nhà, toà nhà,
hay căn nhà” th́ người nói và người nghe thường chỉ biết đến bất cứ
một căn nhà nào đó. Căn nhà đó có thể là một căn nhà lớn nhỏ, mới cũ
của một người hàng xóm với ta, hoặc nhà của tôi, hay nhà của bạn và cả
nhà hoang nữa. Nói đến “căn nhà” là nói đến một h́nh thể vật chất nơi
đó được dùng để che nắng, trú mưa, ngăn cản những luồng gió độc và bảo
vệ con người khỏi những muông thú nguy hiểm. Nhắc đến hai chữ “căn
nhà” thường không bắt buộc người nói và người nghe phải liên hệ nó với
một cá nhân cụ thể nào, nhưng thường chỉ muốn trực tiếp nói về căn nhà
đó nó như thế nào mà thôi.
Chức năng của căn
nhà là che chở, bảo vệ khỏi những hiểm nguy và c̣n là nơi cho con
người nghỉ ngơi. V́ tính thiết thực của nó nên căn nhà đă luôn gắn
liền với đời sống con người từ muôn thủa và sẽ c̣n măi với các thế hệ
sau. Từ những ngày đầu của đời sống sinh hoạt trong xă hội nguyên
thủy, con người đă gắn liền với việc t́m kiếm cho ḿnh một nơi ẩn trú
những khi nắng mưa. Khi ấy căn nhà mới chỉ là một cái hang. Sau khi
con người đă phát triển hơn th́ họ biết dựng lều mà ở thay cho hang.
Nếp sống săn bắn đă bớt dần, con người bắt đầu biết trồng trọt và chăn
nuôi. Thế nhưng chăn nuôi và trồng trọt lúc này vẫn c̣n là nếp sống
du mục, nay đây mai đó, nên việc dựng lều là cách rất tiện lợi và phổ
biến. Phải đợi đến khi cuộc sống bắt đầu định cư lúc ấy con người mới
biết làm nhà. Người ta biết làm lều rồi mới biết làm nhà. Làm lều
thường đỡ tốn công và đỡ vất vả hơn. Người ta dựng lều rồi nhổ đi hay
bỏ luôn cũng không thấy tiếc. Dựng nhà th́ phức tạp hơn, kiên cố hơn
và căn nhà không chỉ là chỗ che mưa, tránh gió, chỗ nghỉ ngơi, nhưng
c̣n là chỗ để dự trữ lương thực và là nơi sinh hoạt chính của gia đ́nh.
Mới đầu căn nhà
thường là nhà lá, nhà tranh, rồi nhà đất, sau mới đến nhà gỗ, nhà gạch.
Khi xưa, các căn nhà rất đơn giản chỉ một tầng, nhưng rồi dần dần hai
tầng và ngày hôm nay có những toà nhà cao đến trăm tầng. Xă hội con
người tiến bộ khiến giấc mơ của con người về nơi ăn chốn ở trong từng
giai đoạn lịch sử cũng đổi thay. Giấc mơ cuộc sống hạnh phúc cũng leo
thang dần ở mọi nơi, Đông cũng như Tây. Khi cuộc sống c̣n đơn sơ,
kham khổ những mộng ước con người cũng rất đơn giản. Những ước mơ đơn
sơ ngày xưa ấy c̣n ẩn hiện nơi những bài hát của những cặp t́nh nhân
trong ngày cưới. Họ không mơ ǵ hơn, chỉ ước mơ “một mái nhà tranh
với hai trái tim vàng.” Đơn sơ thế thôi, nhưng ước mơ đó đă là sức
mạnh khiến nhiều người, trong các thế hệ trước chúng ta, tiến đến sống
chung trọn kiếp. Một khi cuộc sống tiến bộ hơn, con người không c̣n
mơ mái nhà tranh hai trái tim vàng nữa mà họ ủ cho ḿnh những giấc mơ
“nhà ngói cây mít.” Đọc lại những tác phẩm văn học thời 30-45 chúng
ta vẫn bắt gặp những ước mơ này. Tại sao lại ước mơ nhà ngói cây mít?
V́ nhà ngói th́ bền và cây mít là loài cây sống lâu. Khấm khá hơn như
cuộc sống hiện đại này, giấc mơ hạnh phúc của con người cũng chỉ quanh
quẩn xung quanh cái nhà. Rời Việt Nam qua đến xứ Mỹ này, tôi bắt gặp
American dreams (Những giấc mộng Mỹ) cũng lại là những cái nhà. Nhưng
cái nhà trong xă hội đương đại và nơi đất Mỹ này đó là những cái nhà
kín cổng cao tường, có tường luỹ vây quanh, có hào ngăn cách.
Đó là nói về căn
nhà, cái nhà, toà nhà, nhưng nếu bỏ những tiếng đứng trước chữ “nhà”
như “căn, cái hay toà” th́ nghĩa đă khác lắm rồi. Khi nói đến “nhà”
th́ người nghe và người nói thường liên tưởng đến mối tương quan giữa
căn nhà và người sống trong đó. Người ta chỉ gọi đâu đó là “nhà” khi
người ta sống ở đó, cảm thấy thoải mái ở đó và người ta được tự do
sinh hoạt trong căn nhà ấy. Nếu nói một “căn nhà” th́ dù không có
người ở, không phải của tôi nó vẫn là một căn nhà. Nhưng nếu nói
“nhà” th́ nơi nào đó phải là nơi tôi sống, tôi cảm thấy thoải mái, tự
do, ấm cúng và là nơi tôi đi về. Khi đến nhà một người khác, tôi
không có cái tự do và thoải mái như ở nhà. Chủ nhà muốn tôi được
thoải mái thường nói “Hăy cứ tự nhiên như ở nhà cho.”
Những đặc tính
chở che, tạo sự thoải mái, yên lành của căn nhà khiến cho các cách nói
sinh hoạt hằng ngày của người Việt Nam cũng gắn bó với nhà cửa của họ.
Ngôn ngữ Việt Nam thật hay v́ nó đă diễn tả được trọn vẹn mối tương
quan của căn nhà và người sống trong đó. Khi một cặp vợ chồng yêu
thương nhau, người này là sự b́nh an, nơi nương tựa và chỗ gởi gắm yêu
đương của người kia, họ không gọi người bạn đời của họ bằng tên riêng
nhưng gọi là “nhà tôi.” Chẳng hạn một người vợ hay chồng có thể trả
lời khi được hỏi: “Anh/chị ấy có nhà không?” “Nhà tôi đi vắng rồi.”
Hay “Nhà tôi đang bận chút việc.” Khi vợ chồng c̣n gọi nhau là nhà
của nhau, ta sẽ cảm thấy đó thật là nhà và người đi xa đều muốn trở về,
mong cho việc đang làm xong sớm hay thời gian qua mau và đường đi ngắn
lại để rồi c̣n trở về “nhà của ḿnh.” Nhà lúc này không chỉ là một
căn nhà bằng gỗ đá nữa nhưng là một con người, nơi tôi t́m được sự yêu
đương, cảm thông và nương tựa. Nếu một cặp vợ chồng nào đó không c̣n
gọi nhau là nhà của nhau nữa, mà gọi bằng một đại danh từ nào đó như
“ổng” hay “bả,” người nghe có thể đoán bắt được ngay cường độ t́nh yêu
trong gia đ́nh đó như thế nào. Tệ hơn nữa, nếu không gọi là “nhà tôi”
nhưng là “thằng cha ấy,” hay “con mẹ đó,” th́ đây quả là một thứ t́nh
yêu thiếu máu và xanh xao, nếu không muốn nói là t́nh yêu đă thật sự
trống vắng trong căn nhà đó. Lúc đó nhà không c̣n là nhà nữa mà là
“hoả ngục,” hoặc là “nhà tù” của nhau, mà chúng ta vẫn thường nghe đến
quen tai.
Suy tư về những
cách nói của người Việt Nam qua hai chữ “căn nhà” và “nhà” đă đẩy tôi
đến một suy nghĩ rất quan trọng về hạnh phúc của các gia đ́nh. Các
gia đ́nh Việt Nam vốn không quen với hai chữ “ly dị,” nhưng ngày hôm
nay, tại Việt Nam cũng như hải ngoại này đă thấy bắt đầu nhen nhúm đó
đây nhiều cảnh gia đ́nh chia ĺa nhau. Người Việt sống tại Việt Nam
hay tại hải ngoại này không ít th́ nhiều sẽ bị ảnh hưởng bởi những
giao động từ những cuộc đổ vỡ của các gia đ́nh chung quanh, không cùng
văn hoá với ḿnh. Nhưng nếu chỉ nói như vậy th́ ta có thể quy lỗi cho
môi trường văn hoá chung quanh ta và việc t́m ra nguyên nhân hay cách
pḥng ngừa có thể không nằm trong tay ḿnh, ḿnh không có trách nhiệm
trong các nguyên nhân gây ra các vụ gia đ́nh đổ bể. Nhiều người có
thể cho rằng ly dị hay đổ vỡ của các gia đ́nh hôm nay là một hiện
tượng của số đông, một phong trào chứ đâu tự mỗi cá nhân. Nhưng không
phải vậy. Chúng ta phải có trách nhiệm t́m hiểu và pḥng ngừa, không
thể để cho hiện tượng đẩy đưa gia đ́nh ta. Nếu nói các gia đ́nh đổ bể
là do ảnh hưởng bởi văn hoá Tây phương, vậy các gia đ́nh Tây phương đổ
vỡ do ai? Người Tây phương cũng như người Đông phương khi yêu nhau,
mọi người đều muốn sống đến trọn đời. Vậy sự đổ vỡ của các gia đ́nh
Đông-Tây có nguyên nhân của nó và nguyên nhân ấy nằm ở trong ta, chứ
không ở ngoài ta.
Chúng ta thử nh́n
lại những ước mơ trong ḷng người Việt từ xưa đến nay xem biến thay
thế nào. Vào những thời xa xưa khi yêu nhau họ ước mơ “mái nhà tranh
và hai trái tim vàng.” Sau này, giấc mơ chỉ c̣n là “nhà ngói cây mít,”
hay “nhà lầu tường cao cổng kín.” Trong những ước mơ về hạnh phúc gia
đ́nh này, tôi không thấy có trái tim vàng đi chung với nhà cửa nữa.
Tôi thấy trong cuộc sống hằng ngày, hầu như ai cũng đi kiếm cho ḿnh
một sự an toàn hơn. Đây là điều tốt v́ nó rất thực tế. V́ nhà gạch
có tường luỹ vây quanh, dĩ nhiên, an toàn tiện nghi hơn nhà tranh vách
đất. Thật sự, người viết bài này cũng không muốn ở nhà đất măi, vẫn
thích ở nhà gạch đá hơn. Nhưng điều tôi muốn đề cập ở đây là ước mơ
hai trái tim vàng dường như không c̣n hiện rơ trong những ước mơ của
nhiều người ngày nay nữa.
Xă hội mà con
người ngày nay đang sống không lạc hậu như xưa nữa nhưng được gọi bằng
những tên như một xă hội của bùng nổ thông tin, của khoa học kỹ thuật,
của tiến bộ văn minh. Những tên nghe rất “kêu,” nhưng chiếc kim
compas của đời sống hạnh phúc gia đ́nh đă bị đổi chiều. Nhiều gia
đ́nh đă nhắm hướng nơi cái nhà gạch mà thôi, một cách rất vật chất.
Ước mơ của họ bị phiếm diện và t́nh yêu của họ bị đóng khung trong vật
chất. Con người trở nên xa lạ, đánh mất chính ḿnh và những người thân
chung quanh ḿnh. Định nghĩa về con người không c̣n qua những giá trị
tinh thần như họ là, nhưng bằng những vật chất họ sở hữu. Tôi không
c̣n nh́n người khác như một nhân vị với đày đủ tự do và lư trí như tôi,
hay như một h́nh ảnh của Thiên Chúa nữa mà là nh́n họ qua vật chất.
Vật chất là sản phẩm do con người làm ra, nhưng người ta lại lấy vật
chất để xác định giá trị của con người. Nhiều người đă dùng vật chất
làm định lượng sự kết thân giữa vợ với chồng, cha mẹ với con cái, bạn
bè với nhau. Thế cho nên, sự khác biệt giữa tôi và những người chung
qanh xảy ra dựa trên vật chất mà tôi có. Người nào không mang những
“mác” giống tôi th́ không xứng là người của tôi, không ngang hàng với
tôi. Một người nào đó sẽ bị mang mặc cảm là không có giá trị, mặc cảm
“trần truồng” khi không sở hữu những mác giống những người khác. V́
vậy, người ta tự lấp đầy những mặc cảm trống vắng này bằng những bộ đồ
mắc tiền, chiếc xe đời mới, căn nhà hạng sang và kiểu ăn tiêu thời
thượng. Con người vẫn tự hào là ḿnh sống trong thời buổi của văn
minh và khoa học kỹ thuật cũng như sung túc vật chất, nhưng chính
những cái con người làm ra lại đang quay lại giết chết con người.
Cuộc sống không phải do con người làm chủ nữa, nhưng chính là con
người đang bị vật chất trị.
Kỹ thuật và vật
chất đă vượt khỏi tầm tay của con người. Vấn nạn của thời buổi khoa
học kỹ thuật là làm cho người ta chạy đuổi măi theo những tiện nghi
vật chất và không bao giờ ngừng được. Nhiều người đi làm ngày làm đêm,
không c̣n giờ để giải lao, không c̣n giờ để sống vun đắp cho người
thân, với mục đích là có nhiều tiền. Họ tự nuôi hy vọng rằng khi có
nhiều tiền sẽ nghỉ làm. Nhiều người khác thường nhủ thầm trong thâm
tâm rằng đi làm nhiều tiền để cho tương lai hạnh phúc thoải mái hơn;
thế rồi, hằng ngày họ tự nhốt ḿnh trong những “con ngựa sắt” trên
đường phố và trong những “cũi” gỗ đá do chính họ xây nên. Nhưng đâu
là tương lai, khi người ta chưa xác định được đâu là hiện tại? Bao
giờ mới là tương lai hạnh phúc, khi mà người ta chưa biết sống hạnh
phúc ngay trong hiện tại? Người ta chỉ có thể dừng được khi họ xác
định được điểm sống trong hiện tại. Một cuộc sống ảo tưởng và vô vọng!
Khoa học kỹ thuật
phát triển sản xuất ra nhiều máy móc có thể giúp con người làm được
rất nhiều việc vừa nhanh, sản lượng cao, chính xác, nhẹ nhàng và an
toàn. Điều này không ai phủ nhận. Nhưng có thật sự khoa học tiên
tiến và vật chất dư thừa đă làm cho cuộc sống hạnh phúc hơn xưa không?
Thực tế cuộc sống với khoa học phát triển nhưng hạnh phúc con người
vẫn không khác xa, đau khổ vẫn cứ tồn tại, chiến tranh vẫn sôi lửa đỏ
và hố ngăn cách giữa người và người dường như càng ngày càng tăng.
Khoa học kỹ thuật phát triển lại sinh ra nhiều sản phẩm đúng ra đời
sống phải khá hơn xưa nhưng nhiều điều hoàn toàn ngược lại. Cuộc sống
thật vội vă, toàn là những cái phải nhanh, mau, lẹ không c̣n giờ để
thưởng thức một cơn gió mát, hay ăn những thức ăn tươi sống do ḿnh
nấu nướng, hoặc t́m hiểu người thân chung quanh hôm nay như thế nào.
Nhiều người làm nhiều tiền nhưng rồi hằng ngày vẫn phải nuốt những đồ
hâm lại từ đông lạnh, uống th́ uống expresso, đến nhà hàng th́ nhà
hàng fast food và đi lại bằng những phương tiện tốc hành.
Nguy hiểm nữa của
đời sống vật chất tiêu thụ đang đe dọa con người và làm cho nhiều
người tự động biến ḿnh trở thành những con vật, mất hết tự do, bị vật
chất hóa, quảng cáo điều khiển. Nhiều người phải mua cái này cái kia
không phải v́ họ chưa có nhưng v́ quảng cáo bảo cho họ biết có một sản
phẩm mới ra, trong khi đó chức năng của cái mới cũng không hơn ǵ cái
cũ. Nhiều người phải mua cái nọ cái kia không phải v́ tôi cần nhưng
v́ quảng cáo bảo họ biết đang bán đại hạ giá. Nhiều người không có
chọn lựa, sống theo sự điều khiển của quảng cáo và kỹ thuật, mất tự
do. Nhiều người đă đánh mất tự do trong ḿnh và trở nên nô lệ cho các
sản phẩm ḿnh làm ra. Một h́nh thức nô lệ kiểu mới.
Tự do là món quà
lớn nhất mà Thiên Chúa ban cho con người. Sống có tự do là sống gần
Thiên Chúa nhất. Nhờ có tự do mới có thể nói con người hơn vật chất,
hơn những con vật. Không có tự do con người không thể làm chủ ḿnh
được, cũng không biết ḿnh là ai và những người chung quanh là ai. Họ
trở nên xa lạ với cha, mẹ của họ, nơi họ đă được hiện hữu và nơi họ sẽ
đi về. Cuộc đời này có ư nghĩa ǵ ngoài vật chất ra, họ cũng không
cần biết. Một kiểu vô thần tân thời. Như vậy, ngày nay người ta
không vô thần v́ triết gia này triết gia nọ nói với họ, “Không có Chúa,”
nhưng họ vô thần v́ sản phẩm vật chất họ làm ra bảo cho họ, “Không có
Thiên Chúa.”
Như thế nguyên do
không phải v́ Đông hay Tây nhưng tại trong ta. Tại ta ước mơ lầm; tại
thế giới con người đang có những định hướng lộn. Nhiều người đă không
ước mơ trái tim vàng trong đời sống hạnh phúc gia đ́nh cùng với căn
nhà gạch, th́ “căn nhà gạch” sẽ không bao giờ là “nhà” mà là cũi nhốt
chồng khỏi vợ, vợ khỏi chồng, cha mẹ khỏi con cái và anh chị em khỏi
nhau. Thật ngớ ngẩn nếu có ai nghĩ rằng, vậy không nên làm việc nữa,
cứ ở nhà bên nhau sẽ có bánh từ trời xuống. Tôi cũng không muốn nói
mọi người phải trở về với thời mọi rợ, nhưng mỗi người có thể dùng các
tiến bộ khoa học kỹ thuật và vật chất sao cho không bị chúng làm chủ
ta và mọi việc ta làm, cách ta sống sao cho ta và người khác nếm được
hoa trái của t́nh người, t́nh gia đ́nh. Xây dựng và vun trồng trái
tim vàng vẫn là điều cần thiết hơn cả. Có trái tim vàng người ta sẽ
có thể “Tát cạn biển đông.” Gia đ́nh và t́nh người chính là những món
qùa mà Chúa ban cho con người để họ có thể nếm được hương vị Thiên
đàng ngay trên đất. Mỗi người có thể đóng góp vào việc giúp các gia
đ́nh pḥng ngừa và chữa trị căn bệnh ly dị của xă hội lây lan là định
hướng lại những ưu tiên trong cuộc sống, đâu là giá trị hàng đầu khiến
tôi yêu người bạn đời của tôi, yêu con cái tôi hơn, làm cho tôi trở
lại thành người với tất cả tự do. Mọi người đều là phần tử của gia
đ́nh ḿnh, cần phải tự hỏi: Mọi việc tôi đang làm sẽ đóng góp xây dựng
nền tảng hạnh phúc gia đ́nh tôi như thế nào? Tôi và gia đ́nh tôi đang
bị ảo tưởng hoặc đang bị vật chất thôi miên mọi hành động trong cuộc
sống như thế nào?
Sự mơ lầm hay thờ
ơ với những giá trị hàng đầu của đời sống hôn nhân, dẫn đến gia đ́nh
tôi bị lung lay hay đổ vỡ, có thể là sự khéo léo biện cớ không nuôi
dưỡng đời sống cầu nguyện trong tôi và gia đ́nh, sự kiếu từ những cơ
hội thăng tiến làm mới lại đời sống hôn nhân mỗi ngày và không tạo cho
ḿnh những cơ hội học hỏi t́m hiểu đời sống tâm lư, sinh lư và đối
thoại trong gia đ́nh. Những cơ hội tĩnh tâm, tôi có thể không tha
thiết tham dự hay sẽ trở nên vô ích bao lâu tôi chưa dùng chúng để làm
cho tôi yêu vợ, chồng, gia đ́nh tôi hơn và yêu Chúa hơn. Chỉ khi nào
tôi biết quư những thời gian mà gia đ́nh xum họp bên nhau và nhận ra
sự hiện diện của Chúa trong nhau, tôi mới thật sự sửa đổi lại cách
sống, định lại những ước mơ của đời sống gia đ́nh. Mỗi gia đ́nh chúng
ta chỉ có thể nhận ra Chúa trong nhau và yêu nhau hơn nhờ con đường
cầu nguyện mà thôi. Tôi c̣n nhớ mẹ Teresa đă từng nhắc đi nhắc lại
vai tṛ quan trọng của đời sống cầu nguyện gia đ́nh trong đại hội quốc
tế lần thứ chín về gia đ́nh, “Cầu nguyện có hoa trái là đức tin, đức
tin có hoa trái là t́nh yêu, t́nh yêu có hoa trái là phục vụ và phục
vụ có hoa trái là b́nh an.” Và tôi nghĩ có gia đ́nh nào lại không
mong muốn sự b́nh an? Phải xây dựng lại niềm tin với Thiên Chúa thôi!
Chính sự kết thân mang tính cá vị giữa tôi với Chúa sẽ giúp tôi nh́n
ra tôi và nh́n ra giá trị cao đẹp của những người chung quanh và yêu
họ hơn. Nhờ có Chúa và có những người thân trong tôi, tôi mới được
làm người trở lại, sự tự do lúc này nằm trong tay tôi. Tôi sẽ có đủ
sức mạnh để thoát khỏi sức cuốn hút của vật chất tiêu thụ và kỹ thuật.
Lạy Chúa, xin cho
con được làm người và quư trọng sự làm người để con mới thực sự biết
yêu Chúa và yêu gia đ́nh con. Xin cho con biết mơ ước đúng để con xây
gia đ́nh con hạnh phúc và bền vững. Xin cho con biết tận hưởng những
món quà Chúa ban trong hiện tại. Con biết rằng sống trong hiện tại là
sống giống và gần Chúa hơn cả, bởi nơi Chúa không có quá khứ, cũng
không có tương lai, nhưng chỉ có hiện tại mà thôi. Amen.
5/19/01
|
|