|
Tuần này tôi ghi
tên dâng lễ sáng cho các sơ Ḍng Kín. Tôi muốn t́m mọi cơ hội để biết
thêm những sinh hoạt tôn giáo trong những ngày ở Ấn. Bây giờ giữa
tháng Hai. Trời miền trung nước Ấn mang dáng dấp khí hậu sa mạc. Ban
đêm nhiệt độ khoảng 8 hay 10 độ Celsius, nhưng ban trưa có thể lên tới
35 độ. Sáng sớm trời se se lạnh, một quăng đường ngắn, tôi đến nhà
nguyện các sơ lúc 6 giờ 15, dâng lễ lúc 6 giờ 30.
Sáng đầu tiên hơi
bỡ ngỡ. Trong pḥng thánh, áo lễ dọn sẵn. Chiếc áo alba quá dài, thụng
thịnh. Một phong thư tự làm lấy bằng loại giấy viết thư mỏng để bên
cạnh, dán kín, tôi biết trong đó có tiền, v́ bên ngoài đề ư xin lễ cho
linh hồn sơ Clare mới qua đời tháng trước.
Sau này, được
biết trung b́nh một ư lễ 30 rúppi. Phong thư tôi nhận ư lễ thứ nhất ở
Ấn Độ hôm đó 50 rúppi. Nói thật hay nói cho vui, các cha trong nhà
ḍng bảo tôi là cha khách nên các sơ mới cho bổng lễ “béo” như vậy đó.
Đổi chợ đen, một
đô la Mỹ ăn 46.10 rúppi, đổi chính thức được 45.50. Dân lao động b́nh
thường lănh khoảng 70 rúppi một ngày. Lao động phu trộn hồ khoảng 100
rúppi. Ở quê lao động, phụ nữ lănh 30 rúppi.
Tôi c̣n nhớ cảm
xúc khi mở phong thư nh́n 5 tờ rúppi cũ nhàu, mỗi tờ 10 đồng. Ư bổng
lễ đầu tiên tôi nhận trên đất Ấn.
Lúc rời Orange
County, Cali, một cha quản nhiệm và mấy anh chị em Cursillo gởi tôi ít
bổng lễ mười đô la. Tức một bổng “lễ Mỹ” khoảng 460 rúppi. Nh́n 50
đồng rúppi cũ nhàu, dơ, tội nghiệp những người lao động, nhưng tôi
cũng cười thầm với ḿnh. “Chúa ơi, bổng lễ 50 rúppi, có lẽ là khá rồi,
một ngày lương lao động của người nghèo. Nhưng thế này th́ con lỗ 9 đô
la! Chúa biết, con đang dâng bổng lễ 10 đô cơ mà!”
Đă lâu, hôm nay
tôi mới lại có những cảm xúc linh thiêng về bổng lễ của người xin. Sau
khi thụ phong linh mục, việc mục vụ đầu tiên, nhà ḍng gởi tôi về trại
tỵ nạn. Những ngày đầu của một linh mục mới ra trường, có những cảm
xúc, những nôn nao, những nhiệt thành, những khát vọng rất bao la. Một
trong những ư nghĩ nôn nao là không biết ḿnh dâng lễ ra sao, cuộc
sống linh mục thế nào. Tiểu sử thánh Ignatio ghi lại, sau khi thụ
phong linh mục, ngài không dâng lễ mở tay ngay, nhưng đợi một năm sau,
chỉ v́ muốn chuẩn bị cho thánh lễ đầu tay! Sau này trong đời, Ngài
khóc trong nhiều thánh lễ, khóc lúc chuẩn bị mặc áo, khóc lúc dâng lễ,
khóc sau khi dâng lễ. Những nhà nghiên cứu hôm nay dựa vào cuốn tự
thuật của Ignatio, xếp Ngài vào hàng các thánh có kinh nghiệm thần bí
thiêng liêng.
Linh mục mới ra
trường nào cũng có những nôn nao về cuộc sống đầu đời linh mục của
ḿnh. Quyết định trước khi lên đường của tôi là sẽ không nhận bổng lễ,
lấy cớ họ tỵ nạn không có tiền. Tôi cắt nghĩa cho họ dùng tiền ấy
trong lúc túng thiếu mà sống, hoặc làm việc bác ái, giúp đỡ người túng
quẫn sống chung quanh ḿnh như bổng lễ dâng Chúa. Hồi ấy trong trại
tỵ nạn có nhiều người túng thiếu. Trường hợp có người không yên tâm
khi tôi không nhận bổng lễ, họ như sợ lễ ấy không thành cho họ, những
trường hợp như thế, v́ họ, tôi nhận. Những ngày tỵ nạn trôi qua, hôm
nay mới lại có những cảm xúc nh́n những đồng rúppi lao động của những
tâm hồn đi t́m ơn thánh. Một cơ hội để nh́n lại ư nghĩa thánh lễ và sự
thánh thiện của bổng lễ.
Trong bốn đẳng
cấp Hindu (Caste system: Brahmans, Kshatriyas, Vaisays, Sudras), đẳng
thứ tư được ví như chân, hạng người thấp nhất, làm những công việc
nặng nhọc, kẻ hầu hạ. Sinh ra trong đẳng cấp nào, gắn trọn đời với
đẳng cấp ấy. Nó là định mệnh. Sinh ra hẩm hiu, sẽ mang thân phận thấp
hèn. Ấn giáo với những đẳng cấp này đă có từ 3000 năm trước công
nguyên. Lấy được độc lập từ người Anh, măi đến năm 1957 hiến pháp Ấn
Độ mới băi bỏ chế độ đẳng cấp. Nhưng đấy là lư thuyết thôi. Thực tế
lại khác.
Tôi đă đi qua
quăng đường trước cổng nhà ḍng nhiều lần. Có đến hơn chục “nóc gia”.
Họ sống tụm lại thành một xóm, cạnh đường lộ. Không biết họ có bà con
làng xóm với nhau không. Khói xe, bụi đường, ô nhiễm bẩn thỉu là không
khí họ hít thở đêm ngày. Trời nóng, họ ngồi dưới những tấm nylon che
nắng. Không thấy đàn ông, có lẽ họ đi làm. Con nít đen đủi, dơ dáy,
không quần áo nghịch đất rác chung quanh rănh nước đen. Đă nhiều lần
đi qua, tôi muốn chụp mấy tấm h́nh nhưng không dám. Không phải thắng
cảnh thiên nhiên. Không phải sở thú. Họ là con người. Tại sao lại chụp
h́nh. Họ nghĩ ǵ khi kẻ lạ đưa ống kính máy ảnh trước cuộc đời họ. Tâm
trạng họ nghĩ ǵ về thân phận cuộc đời? Nếu họ đến chặn hỏi tại sao
chụp h́nh, tôi biết trả lời sao. Đă cả tháng qua, tôi chưa chụp được
tấm h́nh nào của những con người trước mặt Chúa, Nước Trời cũng thuộc
về họ, nhưng trước mặt đồng loại, họ sinh ra không được b́nh đẳng.
Những người như thế sống thành từng chùm, xóm, rải rác nhiều nơi. Và
dĩ nhiên làm ǵ có nhà vệ sinh, họ tiểu tiện đầy chung quanh nơi họ
sống. Ruồi và mùi khai nồng xú uế.
Dân số Ấn Độ hơn
một tỷ người. Hindu là tôn giáo có lịch sử lâu đời hơn Kitô Giáo nhiều.
Theo truyền thống kể lại, thánh Tôma tông đồ đă đến rao giảng Tin Mừng
ở Ấn. Nhưng phải đợi đến thế kỷ 16 với với các thừa sai như Phanxicô
Xavier qua truyền giáo mới rửa tội được một số. Công Giáo chỉ là thiểu
số, 1.5% so với một tỷ người, đa số gốc gác đến từ đẳng cấp thấp này.
Tôi không nghĩ những người sống ở khúc đường gần cổng nhà ḍng có ai
là Công Giáo. Nếu giả sử có gia đ́nh nào đó, làm sao họ có thể xin lễ
với 50 rúppi.
Tôi nghĩ một ngày
nào đó, tôi dâng cho họ một “thánh lễ Mỹ”. Tôi nhận bỗng lễ anh chị em
bên Cali gởi là mười đô la, tức 460 rúppi một ư lễ. Một ngày nào đó,
ngang qua, tôi cho họ món quà 460 rúppi, lương lao động cả tuần vất vả.
Mỗi lần đi ngang
qua nh́n họ, tôi lại nghĩ, một ngày kia tôi cũng chết như họ thôi. Gặp
nhau trên Nước Trời, họ b́nh đẳng như tôi, họ mừng vui v́ hết những
ngày không c̣n đẳng cấp. Tôi nói chuyện ǵ với họ về kỷ niệm nh́n
những ngày tháng thấy nhau trên cuộc đời trần gian?
Thánh lễ là thân
thể mầu nhiệm của Đức Kitô ôm trọn nhân loại trong sự thương xót cứu
rỗi. Trong tác phẩm Hymn of The Universe, bài Thánh Lễ Trên Địa Cầu,
The Mass on the World, Teilhard de Chardin kể lại năm 1923 ở sa mạc Á
Châu, (có lẽ vào ngày lễ Chúa Biến H́nh) ngài quá ước ao dâng lễ mà
không có bánh, không có rượu, trong lúc khắc khoải v́ không t́m được
của lễ, ngài tự nhủ sao không lấy chính cuộc đời ḿnh mà dâng lễ, đâu
cần bánh rượu. Trong thánh lễ siêu nhiên ấy, ngài đă lấy cả địa cầu là
bàn thờ, đôi chân đứng trên bàn thờ ấy dâng hiến cả vũ trụ cùng với
con người ḿnh thay bánh rượu. Và ngài thấy thánh lễ ấy như rực lửa.
Ngài viết: “Ôi, lạy Chúa, con không có bánh, không có rượu, không bàn
thờ dâng lễ. Băng qua mọi h́nh thức này, con, linh mục của Chúa đây,
sẽ dâng lên chính con, con sẽ lấy cả trái đất làm bàn thờ, con sẽ dâng
Chúa mọi nhọc nhằn, mọi vất vả đau khổ của trần gian.” Teilhard de
Chardin đă không thực sự dâng lễ bằng bánh rượu, v́ không t́m đâu ra.
Ḷng ước ao thôi thúc ngài dâng lễ thiêng liêng đă để lại 19 trang
viết như một trong những suy tư đẹp nhất, thi vị nhất của thế kỷ về
mầu nhiệm thánh lễ trong tác phẩm Hymn of The Universe. Ngay đời Ngài
cũng là một thánh lễ tuyệt vời. Là một khoa học gia nghiên cứu sự sống
thời tiền sử với thuyết tiến hóa, một nhà nhân chủng và địa chất học
trong cái nh́n thần học và triết học. Một khuôn mặt lỗi lạc của Giáo
Hội cũng như trong giới trí thức bác học. Lúc c̣n sống, suy tư của
Ngài gây nhiều tranh luận, không được phổ biến, măi sau khi chết rồi
các tác phẩm ấy mới được phục hưng v́ tư tưởng của ngài vượt quá cách
suy nghĩ của một số người trong Giáo Hội đương thời lúc đó. Vậy mà
ngài im tiếng vâng lời.
Nói về lễ vật,
Teilhard de Chardin viết: “Lạy Chúa, chén thánh và đĩa thánh của con
là chiều dài sâu thẳm nhất của một linh hồn mở rộng ra đón nhận tất cả
vũ trụ, và trong chốc lát đây, sẽ cùng tất cả mọi ngơ ngách của trái
đất này từ tốn, hợp với Thánh Thần dâng lên Chúa.” Trong thánh lễ vô
h́nh ấy, Teilhard de Chardin thấy Thần Khí như rực lửa cháy trên địa
cầu. “Tất cả mọi sinh vật trong ngày hôm nay, đang nẩy chồi, đang kết
trái, đang rộ hoa chín mùa đều mang một ư nghĩa tuyên xưng: Này là
Ḿnh Ta. Và ngay cả sự chết tiềm ẩn đang đợi chờ, đang tàn úa, đang
phai mầu cũng đều mang một ư nghĩa sâu thẳm trong mầu nhiệm đức tin,
tuyên xưng: Này là Máu Ta.” Trong ư nghĩa kết hiệp với mầu nhiệm thánh
thể, Teilhard de Chardin viết tiếp: “Xin Chúa đổ vào chén lễ đời con
nỗi đau của xa ĺa, yếu đuối v́ giới hạn, những hoài nghi trăn trở,
rồi bảo con: Hăy nhận mà uống đi. Lạy Chúa, làm sao con có thể từ chối
được khi Chúa đă đổ vào cốt lơi tủy xương sự sống của con ḷng ước ao
kết hiệp với Chúa ở thế giới đời sau qua cái chết.” Không bánh, không
rượu, không bàn thờ, trong thánh lễ không h́nh thức này, Teilhard de
Chardin cảm nghiệm toàn thể vũ trụ, mọi sinh vật, mọi gian lao, mọi
đau khổ ḥa tan lại thành bánh. Trước khi viết Thánh Lễ Trên Địa Cầu
năm 1923, vào năm 1917 trong tác phẩm Linh mục, The Priest, Teilhard
de Chardin đă viết: “Qua việc nhập thể, Đức Kitô biến tấm bánh thành
Thân Thể Ngài, Đức Kitô không giới hạn trong tấm bánh mà vượt qua đó
bao trọn vũ trụ. Qua một nguyên tố của vũ trụ là tấm bánh đó, Ngài lôi
kéo toàn thể vũ trụ vào Ngài.” Nh́n thánh lễ như thế, nên Teilhard de
Chardin khi nh́n Chúa đến với một tâm hồn, không đơn giản là chỉ với
cá nhân đó. Teilhard de Chardin nh́n tất cả nhân loại liên kết với
nhau. “Kẻ tin cũng như người không tin, hăy làm chúng con kêu lên rằng:
Ôi, lạy Chúa, hăy làm cho chúng con nên một.” Riêng về linh mục,
Teilhard de Chardin viết: “Qua lời truyền phép: Này là Ḿnh Ta. Tấm
bánh thành mầu nhiệm Thánh Thể. Những lời này vượt qua giới hạn của
tấm bánh, chảy tan vào vũ trụ, toàn thể vũ trụ ảnh hưởng v́ lời truyền
phép này.”
Thánh lễ của tôi
không ở trong hoàn cảnh thiếu bánh rượu như Teilhard de Chardin. Không
đủ ḷng sốt sắng như Teilhard de Chardin. Nhưng trong suy tư thần học
của Ngài, thánh lễ tôi dâng cũng chảy tan vào vũ trụ như thế, và phải
như thế, cũng nối kết những liên hệ như thế, v́ đấy là ơn sủng của
Chúa thiết lập qua nhiệm tích Thánh Lễ, chứ không phải v́ tôi là linh
mục.
Nếu một chiều nào
đó, tôi đi chậm lại trước khúc đường ấy, nh́n sự vất vả v́ sinh ra
trong số phận hẩm hiu của họ, tối về nh́n họ trước mầu nhiệm Thánh Thể,
rồi sáng sau tôi dâng cho một thánh lễ “free”. Nghĩa là sau khi dâng
lễ theo ư chỉ với bổng lễ mười đô, tôi đem mười đô ấy mua mấy chậu
thau nhựa, một tấm áo, mấy cục sà bông cho các con em trong nhóm người
đó, hoặc một gia đ́nh nào đang có ai đau ốm, chắc tôi sẽ có những cảm
nghiệm quư lắm về thánh lễ trong mầu nhiệm thân xác Chúa Kitô và sự
túng thiếu của con người. Chắc tôi sẽ có những cảm nghiệm rất thiêng
liêng về bí tích tôi cử hành. Nếu có người cha nào đang mệt sức lao
động, tôi cho họ một thánh lễ “free” để ông ta được nghỉ ngơi mấy ngày,
không phải lo âu phần ăn cho gia đ́nh, nếu tôi làm như thế, chắc tôi
sẽ cảm nghiệm sâu xa lắm trong mầu nhiệm liên đới giữa con người với
nhau. Thánh lễ là mầu nhiệm. Bổng lễ anh chị em gởi tôi, chắc họ cũng
mong có những cơ hội tôi đem của lễ đó nối kết họ với nhau trong ư lễ
thiêng liêng.
Là người dâng lễ,
The Priest, linh mục có những cơ hội để cảm nghiệm thánh lễ một cách
vô cùng phong phú mà giáo dân không có. Teilhard de Chardin đă dâng
thánh lễ trong sa mạc không bánh, không rượu, không bàn thờ. Thánh lễ
đó đối với Teilhard de Chardin có là thánh lễ duy nhất chỉ có một lần
trong đời?
Tuy nhiên, giáo
dân có những cảm nhiệm khác, như Mẹ Têrêsa Calcutta chẳng hạn. Một lần
về Việt Nam, tôi gặp Mẹ Têrêsa ở Hà Nội, cứ chín giờ sáng Mẹ vào dâng
lễ trong ṭa giám mục với Đức Hồng Y. Một sơ trong nhóm người đi cùng
với Mẹ bảo tôi: “Mẹ quư thánh lễ lắm, nếu máy bay ném bom, Mẹ cũng
dâng lễ xong mới chạy.”
Tôi quên câu
chuyện Mẹ Têrêsa với thánh lễ. Qua Ấn này mới lại nhớ đến chuyện đó.
Và lần này chắc khó quên. Mẹ Têrêsa nhắn nhủ các linh mục, trong pḥng
áo lễ nhà ḍng của Mẹ, trước bàn mặc áo, nơi các linh mục chuẩn bị ra
dâng lễ có hàng chữ:
Xin Cha dâng lễ
này như thánh lễ mở tay, như thánh lễ cuối cùng, và như thánh lễ duy
nhất chỉ có một lần trong đời.
Ấn Độ tháng 2,
2001
Note: Teilhard de
Chardin không nói rơ thánh lễ nào. Có tài liệu nói thánh lễ Phục Sinh
năm 1923. Nhưng măi tháng 8 năm 1923 Ngài mới tới sa mạc. Trong nhiều
trường hợp, Teilhard de Chardin đă đề cập ḷng sùng mộ đặc biệt với lễ
Chúa Biến H́nh (Hymn of The Universe, pp. 13-37)
(Trong một bài
khác tôi sẽ viết về các đẳng cấp “caste system” trong xă hội Hindu, Ấn
Giáo, và cam go của Tin Mừng Nước Trời trong công b́nh hóa xă hội)
|
|