Có lần tôi nghe
một chương tŕnh trên đài phát thanh công cộng (National Public Radio)
nói về bánh ngọt (cake). Cô phóng viên nói chuyện với một tác giả về
một cuốn sách. Ông đi khắp nước Mỹ, ngừng ở tất cả các quán ven đường
và sưu tầm những bánh ngọt mà ông cho là ngon nhất. Qua câu chuyện tôi
biết được mẹ cô phóng viên cũng là một người làm bánh giỏi. Ông nhà
văn làm cho cô nhớ lại những ổ bánh ngon mẹ làm cho cô ăn hồi nhỏ.
Cuộc nói chuyện thật tâm đồng ư hợp. Ông tả cái bánh chưa dứt th́ cô
đă tiếp lời v́ cô biết nó ra làm sao rồi. Cả một tuổi ấu thơ ùa về.
C̣n ông nhà văn th́ không ǵ vui bằng khi gặp được người hiểu tường
tận các món bánh mà ông mê. Tôi không ham bánh ngọt ǵ cho lắm, nhưng
cuộc phỏng vấn đối với tôi thật hào hứng. Nó nói lên một sự cảm thông
sâu xa và nhiệm mầu giữa hai người. Tôi nhớ lại thời gian tôi lang
thang t́m Thày nơi người khác. Trên métro mỗi ngày tôi thường thấy một
cặp vợ chồng trẻ mới cưới. Không biết anh nói chuyện ǵ với cô, mà mắt
cô nh́n anh đắm đuối. Cô say sưa uống từng lời anh nói. T́nh yêu vô
h́nh, nhưng tôi thấy được sự nhiệm mầu của nó qua những âu yếm giữa
hai người. Tôi nhớ một người mẹ mỗi ngày đón con về từ vườn trẻ. Có
ngày có chuyện buồn xảy ra, em bé kể lại cho mẹ mà nước mắt ṿng quanh.
Mẹ nh́n em với ánh mắt cảm thông. Mẹ dịu dàng an ủi và chia sẻ nỗi
buồn với em. Tôi nhớ thỉnh thoảng gặp hai anh chàng đi với nhau trên
métro. Một anh bị Down syndrome. Anh kia mặt mũi sáng sủa đẹp trai,
nhưng nh́n một hồi mới thấy anh hơi khật khùng. Anh luôn luôn xuống
lộn trạm, mỗi ngày anh Down syndrome phải coi chừng và nhắc anh. Hai
người nói chuyện rất là vui vẻ. Có một sự cảm thông thật dể thương
giữa hai anh. Đến trạm anh bạn phải xuống th́ niềm vui như chợt tắt
trên mặt anh kia. Nhiều lần tôi muốn gợi chuyện với anh mà không có cớ.
Nếu nói được chắc tôi sẽ gặp được Chúa trong ḷng anh. Tôi nhớ đến một
đoạn trong bài thơ “And God Said No” (Và Chúa Nói, Không!) của Claudia
Minden Welsz:
“I asked God to
make my handicapped child whole,
and God said, “No.”
He said her spirit is,
While her body is only temporary.”
(Tôi xin Chúa chữa lành đứa con tật nguyền của tôi,
Và Chúa nói: “Không.”
Ngài nói tinh thần của em vẹn toàn,
C̣n thân xác của em chỉ là tạm bợ.)
Tinh thần của hai
anh thật vẹn toàn. Với những giới hạn của thân xác như vậy mà hai anh
tạo được một sự cảm thông sâu xa với nhau. Tôi mong biết cách nói
chuyện được với bạn như hai anh. Tôi mong biết lắng nghe người khác
như hai anh. Người ta đến mà không sợ bị phán đoán, nhưng được lắng
nghe trong an b́nh. Tôi mong lắm, nhất là đối với người yêu của tôi,
v́ tôi là một người vô duyên có hạng. Tôi cũng mong khi các con gặp
khó khăn, hay có niềm vui để nói, tôi cũng nghe các con tôi được như
vậy. Muốn là một chuyện, nhưng làm được lại là chuyện khác.
Nói với người
khác th́ dễ nhưng nói với người thân th́ thật là khó. Người ta nói yêu
nhau lắm cắn nhau đau. Có những vết thương mà tôi “cẩn thận ǵn giữ”
suốt bao nhiêu năm. Chưa nói tới đă đau rồi th́ làm sao mà c̣n thần
khí nào nghe người ta nói. Có một người bạn nói với tôi: “Em phải tha
thứ, không phải cho người khác, nhưng cho chính em. V́ khi em tha, th́
Chúa bắt đầu chữa lành những vết thương trong tim em.” Tôi phải học
tha thứ. Tôi học giận đó rồi tha ngay, để niềm vui trở lại với con tim.
Tôi phải tha v́ Thày dạy tôi tha, c̣n những vết thương Ngài sẽ chữa
lành, nếu đó là ư Ngài muốn. Khi cố ư không màng đến nỗi đau của ḿnh
th́ tôi dễ b́nh tâm nghe người khác nói hơn.
Ngoài sự tha thứ,
tôi khám phá một điều nữa. Lúc nào tôi cũng có “chương tŕnh cải tạo”
người khác theo ư muốn của ḿnh, nhất là cho người tôi yêu. V́ tôi
muốn nàng “hoàn hảo” theo ư muốn của tôi. Sửa ḿnh th́ dở c̣n sửa
người khác th́ tôi rất chăm chỉ cặm cụi. Nàng mở lời ra là tôi thấy
sai ngay, cần phải chỉnh đốn. Nếu không th́ biết khi nào nàng mới hiểu
được những chân lư ngàn đời như tôi. Nghe bây giờ th́ thật là lố bịch,
nhưng lúc c̣n điều khiển “chương tŕnh cải tạo” th́ tôi thấy ḿnh thật
chí lư. Như vậy th́ ai có thể nói chuyện được với tôi?
Tôi suy nghĩ lại
th́ thấy tại v́ ḿnh sợ. Tôi sợ tất cả không được vẹn toàn như ư muốn.
Sự sợ hăi bắt nguồn từ ḷng thiếu niềm tin nơi Chúa. Không chắc là
Chúa có can thiệp vào mọi chuyện nhỏ nhặt trong cuộc sống. Nên tôi
phải nắm mọi sự trong tay tôi, dưới cớ là lo lắng và thương yêụ; kể cả
áp đảo sự tự do của người khác. Trong khi đó Chúa tôn trọng tự do, dù
là sự tự do của một đứa bé. Như vậy tôi để con tôi muốn làm ǵ th́ làm
sao? Tôi biết Chúa cũng tôn trọng tự do của con, nên tôi cố gắng cắt
nghĩa và giúp con chọn, thay v́ đàn áp con.
Sau này tôi học
được là khi tôi đặt nhân đức thần trụ (theological virtues) nơi Chúa
th́ tôi cũng sẽ làm như vậy đối với những người chung quanh tôi. Hơn
nữa khi Ngài đặt niềm tin, t́nh thương và niềm hi vọng nơi một người
thiếu sót nhiều như tôi, th́ làm sao tôi không thể tin, cậy và mến
những người chung quanh? Niềm tin nơi Chúa, nơi những người chung
quanh lần lần giúp tôi bớt t́m cách “sửa đổi” họ.
Ngoài cái tật
thấy “sai lầm” nơi người khác cần phải “sửa đổi,” tôi c̣n có những ước
ao riêng. Những ước ao này không phải để sửa đổi người khác mà là để
“cải thiện” họ. Vợ tôi th́ phải đóng vai tṛ như thế này, con tôi th́
phải như thế kia. Tất cả như một món trang sức để cho tôi có một cuộc
sống như ư. V́ những ao ước riêng chưa được măn nguyện, khi nói chuyện
với người chung quanh, tôi chỉ thấy toàn những điều phật ư. Làm sao
tôi có thể nghe ai nói được ǵ trong t́nh trạng này? Làm sao tôi nhận
thấy được những ơn sủng Chúa ban trong khi tôi muốn những điều khác
hơn là những ǵ Chúa đang cho? Những ao ước này giống như người ít tóc
mà mơ một mái tóc bồng bềnh để đứng trước gió chiều lồng lộng. Thật là
lăng mạn, nhưng không có tóc th́ làm sao đứng trước gió được? Vậy mà
vẫn mơ có tóc, ôm măi giấc mơ và không dám bỏ đi. Lần lần tôi phải học
bỏ đi những ư riêng của ḿnh. Giống như câu chuyện anh bạn kể lại sau
một kỳ linh thao đổi đời: “Có một con khỉ thấy một giỏ đầy đậu phọng.
Nó tḥ tay vào bóc nhưng không rút tay ra được v́ cái miệng giỏ nhỏ
quá. Muốn rút tay ra th́ phải bỏ đậu phọng lại. Nó ngồi nh́n giỏ đậu
phọng ngẩn ngơ nhưng không làm ǵ được. Rốt cuộc nó phải bỏ đi.” Tôi
phải bỏ ḿnh đi mới có thể nghe người khác nói.
Và cuối cùng, một
trong những khó khăn của tôi khi nghe người khác nói là người đối diện.
Khi đọc xong cuốn The Seven Habits of Highly Effective People của
Stephen Covey, tôi tập lắng nghe như ông dạy mà không được, v́ người
đối diện với tôi không có ǵ cho tôi học hỏi. Nhiều khi họ không có ǵ
để nói. Cho tới một hôm tôi hiểu được trong ḷng mỗi người có sự hiện
diện của Chúa. Nếu tôi đối xử với họ với sự kính trọng (with respect
and dignity), trong khiêm nhường tôi sẽ gặp được Chúa. Từ đó tôi có
một cái nh́n khác về người chung quanh. Tôi gặp Chúa nhiều nhất và rơ
ràng nhất nơi những người homeless. Chúng tôi chỉ nói chuyện nắng mưa
nhăn cuội thôi mà sao ḷng đầy tràn niềm vui. Có một hôm tôi gặp một
anh homeless c̣n trẻ. Anh bị schizophrenic paranoia nhưng tỉnh táo.
Chúng tôi ngồi trên ghế đá công viên, tôi chia cho anh phân nửa phần
ăn trưa của tôi. Bất chợt anh xin lỗi tôi v́ khi nói chuyện với tôi
anh suy nghĩ hơi lâu. Hai năm qua chưa có ai nói với anh một lời nào.
Đang nhai tôi nuốt không được, ḷng lặng yên không biết nói ǵ.
Chúa hé cho tôi
thấy nét đẹp của sự cảm thông, và dắt tôi đi một đoạn đường thật dài.
Được cảm thông
với người khác, nghĩa là được gặp Chúa trong họ, Ngài mời tôi phải
biết:
- tha thứ vô điều
kiện
- xin Chúa chữa lành những mặc cảm và vết thương
- tin rằng t́nh thương và ơn sủng của Chúa sẽ giúp người chung quanh
- từ bỏ ư riêng của ḿnh
- nhận biết sự hiện diện của Chúa trong ḷng mỗi người tôi gặp
V́ mê một sự hiện
diện nhiệm mầu trong cuộc sống, tôi cố gắng sửa đổi ḿnh. Tôi không
biết tôi sửa ḿnh được tới đâu nhưng ước muốn sống theo ư Ngài, chắc
có lẽ sẽ làm đẹp ḷng Ngài như trong một lời kinh thật dễ thương của
Thomas Merton sau đây:
MY LORD GOD, I
have no idea where I am going.
I do not see the road ahead of me.
I cannot know for certain where it will end.
Nor do I really know myself,
and the fact that I think that I am following your will
does not mean that I am actually doing so.
But I believe that the desire to please you does in fact please you.
And I hope I have that desire in all that I am doing.
I hope that I will never do anything apart from that desire.
And I know that if I do this you will lead me by the right road
though I may know nothing about it.
Therefore will I trust you always
though I may seem to be lost and in the shadow of death.
I will not fear, for you are ever with me,
and you will never leave me to face my perils alone.
From “Thoughts
in Solitude”
(Lạy Chúa, con không biết con đang đi đâu
Con cũng không thấy rơ nẻo đường trước mặt.
Con không biết chắc nó sẽ đưa con đi về đâu.
Con cũng không hiểu rơ về ḿnh,
Và khi con nghĩ rằng con sống theo ư Chúa,
Chưa chắc là con sống theo ư Ngài.
Nhưng con biết chắc một điều
tự ước muốn sống đẹp ḷng Ngài, đă thật sự đẹp ḷng Ngài rồi.
Con mong sẽ làm tất cả mọi sự trong ư muốn đó
Và không bao giờ làm bất cứ điều ǵ ngoài ư muốn đó
dù con không biết ḿnh đi đâu.
V́ thế con sẽ luôn đặt niềm tin nơi Ngài
dù có khi con như đi lạc trong bóng tối của sự chết.
Con sẽ không sợ v́ Ngài luôn măi bên con,
Và Ngài sẽ không bao giờ để con một ḿnh đương đầu với sự dữ.
Trích từ “Những
Tư Tưởng Trong Thinh Lặng”)
Thứ Sáu Tuần
Thánh, khi Thày bị lột trần, tôi xin Thày cũng lột trần những giấc mơ
và ư muốn riêng tư của tôi. Tôi xin Thày cho tôi được tự do để nhận
được t́nh thương của Thày qua những người chung quanh tôi.
|