Một
người cha có hai người con. Ông ta đă
nói với người con cả: “Này con, hôm nay
con hăy đi làm vườn nho.” Nó trả
lời: “Con không đi”, nhưng sau đó nó
đă hối hận và ra đi. Rồi người
Cha nói với đứa con thứ cũng vậy.
Nó trả lời “vâng, con sẽ đi”, nhưng
nó đă không đi. (Mt.21:28-31).
Đoạn
đường từ nhà đến vườn
nho rất là ngắn, nhưng cả hai anh em đă
không làm điều đó. Bởi v́ trong thâm tâm
họ đă không có t́nh yêu đối với cha
ḿnh. Khi không có t́nh yêu th́ không một ai và không
có điều ǵ lay chuyển được,
chỉ có t́nh yêu mới lay chuyển được
ḷng người mà thôi!
Một ngày
kia, Chúa Cha nói với Chúa Con: “Này con, con
xuống thế làm người và chết cho nhân
loại.”
Không
giống như hai người con kia, Chúa Con vâng
lời không chút do dự: Ngài sinh ra tại Bê-lem,
đă lớn lên, làm việc và chết cho t́nh yêu.
Ngài đă
đi qua một cuộc hành tŕnh dài từ
trời xuống thế.
Ngài đă
đi qua một đoạn đường dài
từ cuộc sống sung măn tới sự
chết.
Ngài đă
trải qua một hành tŕnh vô định nhận
đời sống di dân từ thiên tính tới nhân
tính.
Nhưng Ngài
đă hoàn thành v́ Thiên Chúa là T́nh Yêu vô biên.
Chúa Giêsu
đă được sinh ra từ một gia đ́nh
cha mẹ nghèo, ông Giuse và bà Maria, trong một hang
gần Bêlem (Lc. 2:1-20). Ư định của Ngài là
sống nghèo như các ông bà đương
thời.
Nhưng vài
tháng sau khi sinh ra, các nhà chiêm tinh từ phương
Đông đến kính bái hài nhi. Họ là
những người giàu có và dâng cho Hài Nhi
những châu báu quư giá như vàng, mộc dược
và nhũ hương (Mt. 2,1-11).
Hài Nhi giàu
rồi!
Khi các nhà
chiêm tinh đă ra đi, Hài Nhi cựa quậy luôn,
ngủ không yên giấc: luôn luôn khóc, thường
hay đau, dường như Hài Nhi mất b́nh an.
Buổi
chiều, ngay sau các nhà chiêm tinh ra đi chốc lác,
có một người phụ nữ lén lút vào
trong hang và ghé tai nói th́ thầm với ông Giuse và
bà Maria. Bà Maria hối hả thu dọn một ít
quần áo, c̣n ông Giuse lo lấy những món quà
của các nhà chiêm tinh mà không do dự.
Bà Maria nh́n
thấy liền nói cùng ông Giuse:
- Chúng ta hăy
bỏ tất cả những thứ này cho người
hàng xóm; v́ nó sẽ là gánh nặng cho chúng ta mà
thôi.
- Này Maria
ơi, đây là món quà mà Thiên Chúa Quan Pḥng đă
lo liệu cho chúng ta để sống ở Ai
Cập mà!
Bà Maria
cảm thấy không thoải mái lắm nhưng không
muốn làm trái ư chồng, bà bế Hài Nhi đang
khóc và leo lên xe lừa.
Trời âm
u, đêm lạnh và ẩm ướt, mưa đă
ngừng rồi, nhưng gió lạnh đang từ
phương Bắc thổi tới.
Ông Giuse không
quen đường ở vùng đất lạ, nhưng
người phụ nữ kia đă hướng
dẫn ông Giuse và bà Maria cùng Hài Nhi trong đêm
tối trên đoạn đường tới Ai
Cập.
Hôm sau, lúc
hoàng hôn vừa buông xuống, họ đă đến
Hebron. Để tránh trạm kiểm soát ở
ngay cửa thành, ông Giuse đă rẽ sang trái và
đi về miền quê. Nhưng khi ông Giuse
vừa vào con đường ṃn nhỏ, từ
sau nông trại có hai người cươi ngựa
đi tới và chận xe ông Giuse lại, họ là
lính của Hêrôđê:
- Này anh
chị kia, anh chị là ai? Và đi đâu?
- Chúng tôi là
những người nông dân nghèo và chúng tôi
đang đi về nhà. Ông Giuse trả lời.
- C̣n em bé
bao nhiêu tháng rồi?
- Chỉ
được vài tháng.
- Anh chị
có biết là vua Hêrôđê đă ra lệnh
giết tất cả những đứa trẻ
không? Chúng tôi phải giết đứa bé này.
Bà Maria
bắt đầu run sợ về những lời
nói của tên lính.
- Anh chị
chuyên chở cái ǵ trong rương đó?
Một tên
lính xông lại gần ḥm vàng và mở tung ra.
Mắt trố nh́n và kinh ngạc một lúc lâu. Tên
thứ nh́ cũng bước tới.
Hiểu
được ḷng tham từ ánh mắt của chúng,
bà Maria không bỏ qua cơ hội này, liền
bảo chúng:
- Các ông hăy
lấy hết vàng đi và đừng giết con
chúng tôi.
Không
cần phải suy nghĩ, chúng lấy ngay ḥm vàng
và bỏ đi. Ông Giuse liếc nh́n họ một
cách buồn thảm!
Nhưng
chỉ một khoảng đường ngắn,
hai tên lính bắt đầu căi nhau. Ông Giuse
biết ngay là chúng đang bất đồng
về phân chia.
Rồi
tiếng la hét của chúng càng ngày càng lớn hơn,
bà Maria quay lại nh́n và thấy chúng nó đang
đánh nhau. Sau một lúc tranh giành, chúng nó đâm
chết nhau.
Hai ông bà nh́n
nhau đầy kinh hăi. Ông Giuse nói với Maria: Em làm
đúng. Anh chia sẻ với em niềm vui mà chúng
ta đă cứu được Giêsu, là nguồn
mạch sự sống và thà mất vàng bạc, là
nguyên cớ gây oán thù và sự chết.
Sang ngày
kế tiếp, hai ông bà phải đi bộ qua
những dăy đồi khô cháy của miền
Neghev trên con đuờng sa mạc đầy
sỏi đá giữa miền Hebron và Bethsheba. Khi
đi ngang qua mọt căn nhà, Giuse và Maria
chợt nghe một bài thánh vịnh quen thuộc,
hai ông bà dừng lại và vào dự kinh
chiều.
Ông Ahabel, trưởng
hội đường, ra đón hai ông bà và có
một người giúp việc ra rửa chân cho
ông bà.
Sau kinh
tối, ông Ahabel nói cùng Giuse:
- Mời ông
bà ở lại đêm nay với chúng tôi.
- Và Giuse
trả lời: Cám ơn ḷng tiếp đăi
của ông dành cho chúng tôi.
- Và Maria
ngỏ lời: Chúng tôi có một ít nhủ hương,
xin biếu ông để dùng vào việc phụng
thờ.
- Giuse đi
lấy những hộp ngủ hương. Bà Maria
lại nói tiếp:
- Chúng tôi cũng
có nhiều mộc dược nữa. Ông có
thể bán để chi tiêu vào việc cộng
đoàn.
Ông Ahabel
ngạc nhiên về ḷng đại lượng
của ông bà, liền trả lời:
- Cám ơn
ông bà thật nhiều, nhưng theo ư tôi ông bà nên
giữ lại mộc dược, v́ tại vùng
biên giới có nhiều cướp bóc. Chắc
chắn ông bà sẽ gặp họ, nếu không có
ǵ cho chúng, ông bà sẽ bị giết một cách
dễ dàng.
Ngày hôm sau,
Giuse và Maria băng qua biên giới và bước vào
đất Ai Cập. Hai ông bà tiếp tục
đi khoảng chừng một tiếng đồng
hồ, th́nh ĺnh, từ sau đồi cát, một
toán cướp nhào tới chận lối hai ông
bà, họ la hét, múa dao, múa gươm và vây quanh
xe rồi uy hiếp hai ông bà. Một tên cướp
đưa dao vào cổ họng Giuse, một đứa
đưa vào bà Maria. Số c̣n lại, chúng nó
lục soát t́m kiếm vàng khắp nơi trong xe.
Giuse nói
với họ:
- Chúng tôi
nghèo lắm. Chúng tôi không có ǵ ngoài một ít
mộc dược.
- Tên
chỉ huy la lên: Cả xe và lừa nữa!
Sau khi
bọn cướp lấy hết đồ đạc
và đi khuất, Giuse và Maria nh́n nhau và ôm nhau vui
sướng, cả hai quỳ xuống trên cát
giữa sa mạc mà tạ ơn Thiên Chúa.
Đó là ngày
25 tháng 12 năm ấy.
Bé Giêsu
mừng sinh nhật đầu tiên trong cảnh nghèo
hoàn toàn giống như ngày em sinh ra cách đây
một năm tại Bêlem. Cha mẹ em mất
hết đồ đạc, vàng, xe và lừa. Hai
ông bà không c̣n ǵ ngoài em bé Giêsu. Nhưng ông bà
lại thấy vui sướng v́ bé Giêsu dường
như khỏe lại và b́nh an.
Hai ông bà
bắt đầu thả bộ trên con đường
cát, đi chừng khoảng hơn một
tiếng, gặp một ông lăo râu tóc bạc phơ,
mắt sáng ngời, mời hai ông bà về
trại của ông nghỉ. Sau khi đăi hai ông bà
một bữa cơm thịnh soạn, ông lăo nói
với Giuse và Maria:
- Tôi
biết hai ông bà là người Do Thái đang
đi trốn sự tàn bạo của vua Hêrôđê.
Nhưng địch thù lớn nhất của Giêsu
không phải là Hêrôđê mà là vàng bạc đă
tặng cho em. Hăy nhớ rằng: Thiên Chúa từ
trời xuống thế không phải để
nhận vàng của nhân loại, nhưng Ngài
muốn chia sẻ sự sống sung măn của Ngài
với nhân loại. Bây giờ hai ông bà đă
trở lại cảnh nghèo nàn, em bé Giêsu đă
được hồi phục lại ḷng tự
do. Vậy hăy trở về Do Thái và Thiên Chúa chúc
lành cho ông bà.
Giuse và Maria
đă đi về lại làng Nagiarét (Mt. 2,23).
Bà Maria
giữ tất cả những biến cố đó
trong ḷng mà suy đi nghĩ lại (Lc. 2:19-51).
***
Ông Đức
là một sĩ quan dưới chế độ
Cộng Ḥa ở Việt Nam. Ông có một bà
vợ thật đẹp và năm đứa con
tuyệt vời. Ông làm chủ hai căn nhà ở
Saigon, ông hưởng thụ địa vị cao
trọng trong xă hội, có uy tín trong quân đội
và tương đối giàu có. Ông là người
chồng và người cha vui vẻ. Ông đă thành
công trong cuộc sống và không c̣n mơ ước
ǵ khác hơn nữa là tiến thân trong binh
nghiệp.
Và ngày 30 tháng
4 năm 1975 đă đến!
Cuộc
sống ông Đức hoàn toàn thay đổi!
Ba tháng sau
khi cộng sản chiếm Saigon, ông Đức
bị bắt và phải học tập cải
tạo. Ông Đức phải chịu những công
việc vất vả, học cải tạo,
bị đói và cô đơn. Gia đ́nh không
được phép đi thăm. Ông Đức
bị đưa ra miền Bắc xa xôi, gần biên
giới Tàu và bị giam giữ ở đó 13 năm.
Hai năm
sau khi ông bị bắt, bà vợ ông đi lấy
một người khác. Các con ông tản mác
khắp nơi. Cha mẹ và anh em ông đă ở
hải ngoại. Công an tịch thu hai căn nhà
của ông.
Ông Đức
đă mất tất cả!
Khi ra
khỏi tù, ông không biết đi về đâu.
Ông nói với chính ḿnh: “Tôi đă trơ
trụi như khi tôi sinh ra.” Điều làm ông
đau khổ nhất là ông không c̣n ai chờ
đón và vui mừng ngày trở về của ông!
Ông Đức
thật cô đơn và cô độc ... ông mang
một nỗi khổ bi đát sâu đậm trong
tâm hồn!
Một ngày
kia trên phố Saigon, ông Đức gặp lại
một trong những người bạn cũ
của ông.
- Ồ,
ngạc nhiên biết bao khi gặp lại anh.
Mời anh đến nhà chơi.
Họ đă
về nhà bằng lối khác nhau. Và người
bạn nói cho ông biết, người con gái út
của ông hiện cũng đang ở Saigon, nhưng
đă làm đám cưới với một cán
bộ cộng sản.
- Cô ấy
bây giờ là cộng sản rồi, đây là lư
do tại sao cô không đi thăm anh lúc anh ở tù.
Ông Đức
đến thăm con gái. Cô đón tiếp ông
lễ phép nhưng không vui. Cuộc gặp gỡ
đầy băo tố. Sau một lúc, cô đứng
dậy và nói với ông:
- Mười
ba năm cải tạo không thay đổi
được tư tưởng sai lầm
của ba sao? Tôi không c̣n một điểm nào
chung với ba được nữa... Cô ta bỏ
đi ra!
Ông Đức
dường như là một xác chết! Chính lúc
này, ông hiểu sâu xa thảm cảnh và sự cô
đơn của ông tận đáy ḷng: ông đă
thất bại không những như người
chiến sĩ, như người chồng nhưng
c̣n là người cha nữa. Sự cô độc
của ông c̣n bi đát hơn ông nghĩ!
- Tôi không c̣n
gia đ́nh nữa: cả con tôi cũng từ
bỏ tôi! Chẳng những tôi không c̣n ǵ
nữa mà ngay cả chính tôi, tôi cũng không có.
Vậy tôi sống làm ǵ nữa? Cuộc đời
của tôi vô nghĩa! Ông đă nghĩ đến
việc tự tử!
Nhưng
một người bà con xa cho tiền ông vượt
biên với điều kiện ông đem theo Linh,
một người con trai 15 tuổi của
họ.
Ông Đức
do dự: Đi ra nước ngoài có ích lợi ǵ?
Tôi có t́m lại được tinh thần và
sức mạnh để bắt đầu
một cuộc sống mới không?
Cuối cùng
ông chấp nhận v́ ông muốn nói cho thế
giới biết thế nào là sự tồi tệ
của người cộng sản. Ông đă lên
tàu với Linh và 20 người khác nữa. Nhưng
thảm kịch lại đến với ông
nữa: hải tặc tấn công chiếc tàu
của ông. Cướp hết tất cả
mọi sự, hăm hiếp phụ nữ và sau
đó đánh ch́m chiếc tàu và Linh lại
chết đuối. Chỉ c̣n ông Đức và vài
người khác nữa c̣n sống sót và đến
được Thái Lan. Hiện giờ ông Đức
đang ở trong một trại Thái Lan.
Tinh thần
ông Đức sa sút. Ông cảm thấy có tội
về cái chết của Linh. Ông tức giận
Trời Phật.
Tại sao
lại tàn bạo với ông như thế?
Tại sao cho những thảm kịch đau
khổ liên tục xảy ra với ông? Tại sao
lại tước đoạt tôi khỏi mọi
sự và mọi người? Có rất nhiều
người giàu và hạnh phúc. Tại sao tôi
mất gia đ́nh rồi lại cắt giảm
những thứ khác nữa? Đây là một
sự bất công khủng khiếp! Con người
không thể sống cô độc trơ trọi
một ḿnh được!
Từ khi ra
tù ông Đức chưa bao giờ đặt chân
đến chùa.
Rồi
đêm vọng Giáng Sinh ông Đức đến
nhà thờ như bao người khác. Ông nghe
một đoạn trong bài đọc, tác động
ḷng ông: “Ngài đă đến từ giàu sang và
trở nên nghèo hèn!”
- Giống tôi!
Ông Đức tự nói.
Những bài
thánh ca Giáng Sinh đă gợi lại cho ông
nhiều kỷ niệm lai láng. Đă nhiều
lần, mặc dù ông là người Phật giáo
nhưng ông đă tham dự lễ đêm Giáng
Sinh với vợ con ông. Bây giờ chỉ có
một ḿnh ông!
Không
kiềm chế cơn xúc động, ông ngồi
xuống gốc cây và bắt đầu khóc.
Trên
đường về lều, trong bóng tối
của những con đuờng trong trại, ông
gặp một cậu bé đang ngồi khóc:
- Cháu đang
làm ǵ ở đây?
- Cháu
nhớ ba mẹ cháu!
- Cháu ở
đâu?
- Cháu
vừa mới đến đây. Hai chị
của cháu bị hải tặc bắt cóc
rồi ... cháu muốn trở về nhà ...
-
Đi với bác ...
Ông
Đức đưa cậu bé về ở chung
trại bằng tre của ông và ông lấy cho
cậu bé một tô cơm nóng. Sáng hôm sau, ông
đến văn pḥng Liên Hiệp Quốc và chùa
xin quần áo và thực phẩm cho cậu bé.
Những
tuần kế tiếp, ông đi t́m những bé
trai và bé gái đi một ḿnh về chăm sóc chúng.
Từ đêm
Giáng Sinh đó, dường như ông Đức
t́m lại cuộc sống mới, một ư nghĩa
mới trong đời sống mới! Trước
hết, ông quên dần nỗi buồn, nỗi cô
đơn hiu quạnh của ông. Và ngược
lại, ông cảm thấy một niềm vui
mới, một niềm vui thật sâu xa mà ông chưa
bao giờ cảm nghiệm ngay cả với
vợ ông. Và ông cảm thấy tràn đầy
vui thỏa trong tâm hồn như ông là một con
người khác.
Ông tự
hỏi: “Tại sao tôi có niềm vui này, tại
sao tôi thấy cuộc đời tôi có ư nghĩa?”
Dần
dần, ông đă hiểu: Con người chỉ
có giá trị như t́nh yêu, ḷng vô vị
lợi, sự hổ tương và phục
vụ, t́nh huynh đệ và tự do nội tâm
... mới xây dựng nhân cách chúng ta. Chứ không
phải sự nghiệp, tiền bạc, danh
vọng, đời sống gia đ́nh ...
Lỗi
lầm trong quá khứ của ông là sống cho chính
ông, cho sự nghiệp, cho hạnh phúc, giàu sang.
Ông đă bị mất tất cả, và dẫn
đưa ông đến sống cho người khác,
thực hành giá trị nhân cách con người.
Ông đă t́m
thấy đó là nguồn sức của sự
sống, của niềm vui và là ư nghĩa của
cuộc đời.
Ông Đức
đă đến chùa cám ơn Trời Phật
đă soi sáng cho ông khám phá ra niềm vui thật
sự này.
Cha chúc
các con có cùng cảm nghiệm như Chúa Giêsu và
ông Đức. Ước ǵ các con t́m được
niềm vui và ư nghĩa trong mùa Giáng Sinh và năm
mới tại hải ngoại.
Ghi chú:
Đây là lá thư cha Dominici chúc mừng Giáng Sinh
cho các bạn ở tại tị nạn Banthad, Thái
Lan năm 1989. Và cha cũng gởi về
Phong Trào Đồng Hành, chúc mừng Giáng Sinh
đến tất cả anh chị em.
(Trích
trong Đồng Hành, tháng 12 năm 1989)
|